Đăng bởi Để lại phản hồi

Bản tin thuế tháng 01/2021

Kính chào Quý Khách hàng,

Công ty TNHH Công nghệ HERCULEX xin trân trọng gửi tới Quý Khách hàng Bản tin Thuế Tháng 01/2021.

BẢN TIN THUẾ THÁNG 01/2021

I. Thông báo thời hạn nộp tờ khai thuế trong kỳ kê khai Tháng 12/2020 và Quý IV/2020

HERCULEX xin thông báo, do ngày cuối của kỳ kê khai Quý IV/2020 trùng với ngày nghỉ (ngày thứ Bảy) nên theo Quy định tại khoản 4 điều 8 thông tư số 156/2013/TT-BTC “Trường hợp ngày cuối cùng của thời hạn giải quyết thủ tục hành chính trùng với ngày nghỉ theo quy định thì ngày cuối cùng của thời hạn được tính là ngày làm việc tiếp theo của ngày nghỉ đó”. Như vậy thời hạn nộp hồ sơ khai thuế như sau:

⦁ Hồ sơ khai thuế của kỳ kê khai Tháng 12/2020: Hết hạn nộp vào thứ Tư ngày 20/01/2021.
⦁ Hồ sơ khai thuế của kỳ kê khai Quý IV/2020: Hết hạn nộp vào thứ Hai ngày 01/02/2021.

HERCULEX lưu ý Quý khách hàng nên kê khai, nộp tờ khai sớm trước thời gian hết hạn ít nhất từ 1 đến 2 ngày để tránh việc quá tải, không gửi được tờ khai.

Trong quá trình kê khai, nếu gặp vấn đề cần hỗ trợ, Quý Khách hàng vui lòng thực hiện theo 1 trong 4 cách dưới đây:

⦁ Cách 1: (cách nhanh nhất để được hỗ trợ hiệu quả): Chat trực tiếp tại link https://m.me/HERCULECompany hoặc https://zalo.me/2069001167018345771.
⦁ Cách 2: Gửi mail tới Trung tâm Chăm sóc khách hàng HERCULEX qua địa chỉ info@goodtax.vn với nội dung mà Bạn cần hỗ trợ, HERCULEX sẽ phản hồi lại Bạn trong thời gian sớm nhất.
⦁ Cách 3: Liên hệ hotline 0967-211-233.
⦁ Cách 4: Xử lý vấn đề đang gặp phải theo các bước đơn giản trong bài hướng dẫn tại https://noptokhai.vn/tvan/huong-dan hoặc tìm kiếm thông tin hướng dẫn về nghiệp vụ, cách sử dụng phần mềm tại https://goodtax.vn.

II. Gim thuế, phí đ h tr người np thuế b nh hưởng bi dch bnh

Năm 2020 nền kinh tế nước ta gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, thiên tai, bão lũ liên tiếp xảy ra. Trong bối cảnh đó, Bộ Tài chính đã tham mưu trình Chính phủ và Quốc hội ban hành nhiều chính sách ưu đãi, hỗ trợ về thuế đối với doanh nghiệp, người dân gặp khó khăn.

Hơn 15.136 hộ cá nhân được hỗ tr

Ngay sau khi dịch Covid-19 bùng phát, Tổng cục Thuế đã tham mưu cho Bộ Tài chính trình Chính phủ nhiều chính sách về thuế nhằm hỗ trợ người dân và doanh nghiệp bị ảnh hưởng. Một trong những chính sách được ban hành kịp thời tháo gỡ khó khăn trước mắt cho người nộp thuế là Nghị định số 41/2020/NĐ-CP về gia hạn thời hạn nộp thuế và tiền thuê đất.

Ông Đặng Ngọc Minh – Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế cho biết, hầu hết các ngành sản xuất kinh doanh bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 được áp dụng cơ chế gia hạn như: lĩnh vực sản xuất; hoạt động kinh doanh, dịch vụ; doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ; các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đều được gia hạn.

“Để bảo đảm chính sách hỗ trợ của Chính phủ được áp dụng rộng rãi đến cộng đồng doanh nghiệp, tổ chức, hộ gia đình cá nhân kinh doanh chịu tác động nặng nề của dịch Covid-19, việc gia hạn nộp thuế được áp dụng đối với những loại thuế liên quan trực tiếp đến các cơ sở sản xuất kinh doanh, gồm thuế giá trị gia tăng phát sinh từ tháng 3 đến tháng 6 (đối với trường hợp khai theo tháng) và kỳ tính thuế quý I, quý II/2020 (đối với kê khai theo quý). Đối với gia hạn nộp tiền thuê đất, Nghị định 41 cũng gia hạn 5 tháng đối với tiền thuê đất của kỳ đầu năm, kể từ ngày 31/5. Do vậy, tiền thuê đất được gia hạn của kỳ đầu năm được nộp ngân sách chậm nhất là ngày 31/10/2020” – ông Minh cho biết.

Ngoài việc gia hạn nộp thuế và tiền thuê đất, Chính phủ cũng đã ban hành Nghị quyết số 42/2020/NQ-CP về các biện pháp hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch Covid-19 bị mất, hoặc thiếu việc làm, giảm sâu thu nhập, không đảm bảo mức sống tối thiểu, hỗ trợ thêm cho một số nhóm đối tượng đang hưởng chính sách ưu đãi, bảo trợ xã hội trong thời gian có dịch. Để triển khai Nghị quyết số 42/NQ-CP, Tổng cục Thuế đã chỉ đạo các cục thuế, chi cục thuế đẩy mạnh tuyên truyền và thực hiện tiếp nhận, thẩm định hồ sơ hỗ trợ hộ kinh doanh gặp khó khăn do Covid-19 đúng quy định.

Theo số liệu báo cáo của các cục thuế, đến hết ngày 5/11/2020, số lượng hộ kinh doanh gửi hồ sơ đề nghị hỗ trợ đến UBND cấp xã là 46.265 hộ. Số lượng hộ kinh doanh mà UBND cấp xã gửi hồ sơ sang cơ quan thuế đề nghị thẩm định là 42.805 hộ, trong đó số lượng hộ kinh doanh thuộc diện hỗ trợ là 33.251 hộ; số không được hỗ trợ là 8.368 hộ, số hồ sơ còn lại cơ quan thuế đang tiếp tục thẩm định. Số lượng hộ kinh doanh đã chuyển sang UBND cấp tỉnh phê duyệt được hỗ trợ là 15.136 hộ, số không được hỗ trợ là 1.729 hộ…

Tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh

Tiếp tục tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công, bảo đảm trật tự an toàn xã hội để duy trì đà tăng trưởng của nền kinh tế, phấn đấu thực hiện cao nhất các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội đã được Quốc hội đề ra, Chính phủ đã thông qua Nghị quyết số 84/2020/NQ-CP về các nhiệm vụ, giải pháp tiếp tục tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công và bảo đảm trật tự an toàn xã hội trong bối cảnh đại dịch Covid-19.

Trên cơ sở Nghị quyết 84, trong thẩm quyền được quy định tại các luật thuế, luật phí và lệ phí, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành và triển khai thực hiện các giải pháp như: giảm 50% lệ phí trước bạ và gia hạn tiền thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) đối với xe ô tô được sản xuất, lắp ráp trong nước; giảm 15% tiền thuê đất cho các đối tượng bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19.

Cụ thể, theo Nghị định số 70/2020/NĐ-CP, ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước được giảm 50% lệ phí trước bạ. Đã có khoảng 145.308 lượt xe ô tô được sản xuất, lắp ráp trong nước khi đăng ký sở hữu đã được giảm 50% lệ phí trước bạ, với tổng số tiền đã được giảm là 4.916 tỷ đồng; dự kiến số giảm cho cả năm 2020 vào khoảng 6.000 tỷ đồng.

Thực hiện Nghị định số 109/2020/NĐ-CP của Chính phủ về việc gia hạn tiền thuế TTĐB đối với xe ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước, ngành Thuế cũng đã chỉ đạo các cục thuế tích cực triển khai. Tính đến ngày 18/11/2020, cơ quan thuế các cấp đã gia hạn cho 14 doanh nghiệp, với tổng số thuế TTĐB được gia hạn là 16.552 tỷ đồng; số đã nộp vào ngân sách nhà nước đến nay là 6.907 tỷ đồng; số đang còn được gia hạn là 9.646 tỷ đồng.

Ngoài hai nghị định trên, theo Quyết định số 22/2020/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, thực hiện giảm 15% tiền thuê đất của năm 2020 đối với các đối tượng thuê đất của Nhà nước bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19. Báo cáo cho thấy, đến ngày 20/11/2020 cơ quan thuế các cấp đã thực hiện xử lý giảm thu cho 2.039 hồ sơ trên tổng số 7.470 hồ sơ mà người nộp thuế đã gửi đến cơ quan thuế với số tiền giảm thu là 199,5 tỷ đồng.

(Nguồn: Thoibaotaichinhvietnam.vn; Xem chi tiết tại đây)

III. Hoàn thiện chính sách thuế tiêu thụ đặc biệt nhằm hướng dẫn sản xuất và tiêu dùng

Thuế tiêu thụ đặc biệt là sắc thuế tiêu dùng đánh vào một số hàng hoá dịch vụ đặc biệt nằm trong danh mục Nhà nước quy định.

Ở Việt Nam, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt đã qua các lần sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn nền kinh tế – xã hội, với yêu cầu quản lý thuế trong từng giai đoạn, với chính sách điều tiết của Nhà nước trong từng thời kỳ. Tuy nhiên, so với yêu cầu đặt ra, chính sách thuế tiêu thụ đặc biệt cũng còn có những hạn chế nhất định, cần tiếp tục được hoàn thiện để phát huy hơn nữa vai trò của thuế tiêu thụ đặc biệt. Bài viết đánh giá những kết quả đạt được của chính sách thuế tiêu thụ đặc biệt hiện hành, nhận diện những tồn tại, hạn chế, từ đó đề xuất một vài giải pháp góp phần hoàn thiện chính sách thuế tiêu thụ đặc biệt nhằm hướng dẫn sản xuất và tiêu dùng.

Đặt vấn đ

Thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) đánh vào một số hàng hoá dịch vụ đặc biệt nằm trong danh mục Nhà nước quy định. Tính chất đặc biệt của hàng hoá, dịch vụ ở một quốc gia tuỳ thuộc vào phong tục, tập quán, lối sống và mức thu nhập bình quân đầu người của quốc gia đó. Nhìn chung, các hàng hoá, dịch vụ được lựa chọn để đánh thuế TTĐB có các tính chất sau:

⦁ Hàng hoá, dịch vụ cao cấp vượt trên nhu cầu phổ thông của đời sống xã hội.
⦁ Các loại hàng hoá, dịch vụ tiêu dùng không có lợi cho sức khoẻ, môi trường gây lãng phí cho xã hội và tác động tiêu cực đến đời sống văn hoá – xã hội.
⦁ Lượng cầu của hàng hoá, dịch vụ này thường biến động theo thu nhập, ít biến động theo giá cả.

Thuế TTĐB thường có mức động viên cao. Thuế TTĐB được xác định trên cơ sở giá trị hoặc tính theo mức tuyệt đối và thường được thu với mức thuế cao hơn so với thuế tiêu dùng thông thường. Với mức động viên cao, nên khi Nhà nước đánh thuế TTĐB vào một hàng hóa, dịch vụ nào đó thường dẫn đến giá của hàng hóa, dịch vụ đó tăng lên, qua đó ảnh hưởng đến cung, cầu các hàng hóa dịch vụ.

Đặc điểm này thể hiện quan điểm điều tiết của Nhà nước thông qua thuế TTĐB. Xét ở khía cạnh quản lý, việc sản xuất và cung cấp các hàng hoá, dịch vụ được coi là đặc biệt không chỉ liên quan đến các vấn đề kinh tế, phân bổ nguồn lực, mà còn liên quan đến các vấn đề xã hội. Vì vậy, để sản xuất và tiêu dùng hàng hoá và dịch vụ này theo định hướng của Nhà nước, thì cần phải sử dụng mức thuế cao thông qua thuế TTĐB để hướng dẫn sản xuất và tiêu dùng hợp lý.

Xét ở khía cạnh phân phối thu nhập, đối tượng tiêu dùng phần lớn các hàng hoá, dịch vụ đặc biệt này là những người có thu nhập cao. Vì vậy, mức động viên cao còn nhằm điều tiết thu nhập của những người có thu nhập cao, đảm bảo công bằng xã hội.

Ở Việt Nam, Luật Thuế TTĐB đã qua các lần sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn nền kinh tế-xã hội, với yêu cầu quản lý thuế trong từng giai đoạn, với chính sách điều tiết của Nhà nước trong từng thời kỳ. Lần sửa đổi, bổ sung Luật Thuế TTĐB gần nhất là trong năm 2014. Ngày 26/11/2014, Quốc hội thông qua Luật số 70/2014/QH13 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế TTĐB, có hiệu lực từ ngày 01/01/2016. Năm 2016, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế giá trị gia tăng (GTGT), Luật Thuế TTĐB và Luật Quản lý thuế có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016.

Một số kết quả đạt được của chính sách thuế tiêu thụ đặc biệt hiện hành

Các kết quả chủ yếu đạt được của chính sách thuế TTĐB hiện hành thể hiện ở những nội dung sau:

⦁ Góp phần tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước (NSNN): Trong giai đoạn 2015-2019, số thu thuế TTĐB năm sau luôn cao hơn năm trước. Số thu thuế TTĐB hàng năm chiếm khoảng 6-7% trong tổng thu NSNN. Bằng việc đánh thuế TTĐB với thuế suất cao vào các càng hóa, dịch vụ xa xỉ, các hàng hóa cần điều tiết, qua đó Nhà nước thu được số thu thuế TTĐB khá lớn. Trong tổng thu từ thuế TTĐB thì số thu từ các mặt hàng ô tô, thuốc lá, rượu, bia chiếm tỷ trọng lớn nhất.
⦁ Góp phần điều tiết thu nhập của những người có thu nhập cao: Hiện hành, đối với các hàng xa xỉ như ô tô từ 9 chỗ ngồi trở xuống: Loại có dung tích xi lanh trên 6.000 cm3 thuế suất thuế TTĐB là 150%, loại có dung tích xi lanh trên 5.000 cm3 đến 6.000 cm3 thuế suất thuế TTĐB là 130%; loại có dung tích xi lanh trên 4.000 cm3 đến 5.000 cm3 thuế suất thuế TTĐB là 110%. Đối với tàu bay, du thuyền, thuế suất thuế TTĐB là 30%. Đối với dịch vụ cao cấp như kinh doanh gôn, thuế suất thuế TTĐB là 20%; kinh doanh ca sino, trò chơi điện tử có thưởng: thuế suất thuế TTĐB là 35%; đối với kinh doanh đặt cược, thuế suất thuế TTĐB là 30%. Thông qua quy định thuế suất thuế TTĐB cao đối với hàng hóa, dịch vụ cao cấp, xa xỉ đã góp phần tăng điều tiết vào thu nhập của những người có thu nhập cao, qua đó góp phần giải quyết vấn đề tái phân phối thu nhập, đảm bảo công bằng xã hội.
⦁ Góp phần hạn chế sản xuất và tiêu dùng những mặt hàng không có lợi như thuốc lá, rượu, bia: Hiện hành, thuế suất thuế TTĐB đối với thuốc lá là 75%; đối với bia là 65%; đối với rượu từ 20 độ trở lên là 65%, đối với rượu dưới 20 độ là 35%. Việc quy định thuế suất thuế TTĐB đối với thuốc lá, rượu, bia cao là nhằm mục đích hạn chế việc sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng, bởi lẽ những hàng hóa này có ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe, đến môi trường.
⦁ Góp phần bảo vệ môi trường: Hiện thuế suất thuế TTĐB đối với xăng là 10%, đối với xăng E5 là 8%, đối với xăng E10 thuế suất thuế TTĐB là 7%. Việc quy định thuế suất thuế TTĐB đối với các loại xăng theo hướng thấp đối với các loại xăng thân thiện với môi trường, qua đó tạo điều kiện để giảm giá bán của các loại xăng này, thể hiện quan điểm của Nhà nước là khuyến khích tiêu dùng các loại xăng E5, E10.

Đối với ô tô thuế suất thuế TTĐB phân biệt theo nhiên liệu sử dụng, hiện hành thuế suất thuế TTĐB đối với xe ô tô chạy bằng xăng kết hợp năng lượng điện, năng lượng sinh học, trong đó tỷ trọng xăng sử dụng không quá 70% số năng lượng sử dụng, thì thuế suất thuế TTĐB bằng 70% mức thuế suất áp dụng cho xe cùng loại; đối với xe ô tô chạy bằng năng lượng sinh học, thì thuế suất thuế TTĐB chỉ bằng 50% mức thuế suất áp dụng cho xe cùng loại; đối với ô tô chạy bằng điện loại chở người từ 9 chỗ trở xuống, thì thuế suất thuế TTĐB là 15%; đối với ô tô chạy bằng điện loại chở người từ 10 đến dưới 16 chỗ, thì thuế suất TTĐB là 10%; đối với ô tô loại chở người từ 16 đến dưới 24 chỗ, thì thuế suất là 5%.

Việc phân biệt thuế suất thuế TTĐB đối với ô tô tùy theo nhiên liệu sử dụng theo hướng ô tô sử dụng nhiên liệu càng thân thiện với môi trường, thì thuế suất thuế TTĐB ngày càng thấp, đã thể hiện quan điểm của Nhà nước là khuyến khích sử dụng ô tô thân thiện với môi trường.

Thuế TTĐB đã có điều chỉnh để hỗ trợ doanh nghiệp sản xuất ô tô gặp khó khăn do Covid -19: Theo quy định tại Nghị quyết số 84/NQ-CP ngày 29/5/2020 về các nhiệm vụ, giải pháp tiếp tục tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công và đảm bảo trật tự an toàn xã hội trong bối cảnh đại dịch Covid -19, trong đó có quy định gia hạn thời hạn nộp thuế TTĐB đối với ô tô sản xuất hoặc lắp ráp trong nước “gia hạn thời hạn nộp thuế TTĐB đối với ôtô sản xuất hoặc lắp ráp trong nước đối với các khoản phải nộp phát sinh từ tháng 3/2020. Thời gian gia hạn không muộn hơn thời điểm 31/12/2020”. Việc gia hạn nộp thuế TTĐB nhằm giúp các doanh nghiệp sản xuất hoặc lắp ráp ô tô trong nước tháo gỡ khó khăn do ảnh hưởng dịch Covid-19.

Những vấn đề còn tồn tại, hạn chế

Mặc dù, chính sách thuế TTĐB triển khai trong thực tiễn đã ghi nhận những kết quả khả quan, song vẫn còn có những hạn chế nhất định, cụ thể:

⦁ Phạm vi áp dụng của thuế TTĐB hiện hành ở Việt Nam còn hẹp: So với các nước đang phát triển, cũng như các nước trong khu vực, thuế TTĐB ở nước ta hiện nay có diện chịu thuế hẹp. Danh mục chịu thuế TTĐB của Thái Lan có 20 nhóm hàng hóa và dịch vụ, của Malaysia thu vào 17 loại hàng hóa, Hungary thu vào 22 loại hàng hóa, Thụy Điển thu vào 19 nhóm hàng hóa…
⦁ Một số loại hàng hóa, dịch vụ được các nước trong khu vực đưa vào diện chịu thuế TTĐB, nhưng chưa được đưa vào đối tượng chịu thuế TTĐB ở nước ta hiện nay như: đồ uống có ga, sản phẩm cao cấp: đồ trang sức và đá quý, đồng hồ đeo tay cao cấp, mỹ phẩm, nước hoa cao cấp…; các thiết bị điện, điện tử gia dụng cao cấp…
⦁ Chính sách thuế TTĐB hiện hành quy định khá nhiều trường hợp không chịu thuế TTĐB, nên cũng làm thu hẹp thêm đối tượng chịu thuế TTĐB. Phạm vi áp dụng thuế TTĐB còn hẹp nên số thu thuế TTĐB của Việt Nam còn chiếm tỷ lệ khiêm tốn trong tổng thu NSNN.
⦁ Một số quy định trong chính sách thuế TTĐB chưa rõ ràng, gây khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện: Theo quy định hiện hành, xe ô tô chạy bằng xăng kết hợp năng lượng điện, năng lượng sinh học, trong đó, tỷ trọng xăng sử dụng không quá 70% số năng lượng sử dụng áp dụng thuế suất thuế TTĐB bằng 70% mức thuế áp dụng cho xe cùng loại chạy bằng xăng.
⦁ Mục tiêu của quy định này là khuyến khích người tiêu dùng sử dụng các loại xe thân thiện với môi trường. Loại xe được áp dụng thuế suất này phải là loại xe có hai động cơ: động cơ xăng và động cơ điện. Trong điều kiện bình thường, xe chủ yếu chạy bằng động cơ điện và động cơ xăng có tính chất dự phòng (khi ắc quy dùng để chạy động cơ điện chưa kịp nạp) lượng khí thải ra môi trường thấp hơn nhiều so với loại xe ô tô thông thường khác. Nhưng do quy định chưa rõ nên việc vận dụng trong thực tế gây ra sự hiểu nhầm, một số doanh nghiệp hiểu là loại ô tô chạy bằng năng lượng điện, nhưng năng lượng điện này có được do chuyển hóa từ nhiên liệu xăng cũng được áp dụng mức thuế suất ưu đãi này, song trên thực tế không phải như vậy.
⦁ Thuế suất thuế TTĐB đối với mặt hàng thuốc lá còn thấp, chưa tương xứng với yêu cầu điều tiết đối với mặt hàng này: Theo Tổ chức Y tế thế giới, thuốc lá là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây bệnh tật và tử vong trên thế giới. Việc sử dụng thuốc lá gây ra 25 loại bệnh khác nhau như: ung thư phổi, ung thư thanh quản, ung thư khoang miệng, ung thư da, các bệnh tim mạch… Việt Nam thuộc nhóm 15 nước có số người hút thuốc lá cao nhất trên thế giới. Mặc dù Việt Nam đã ký kết và tham gia Công ước Khung về Kiểm soát Thuốc lá từ ngày 01/01/2005; đã ban hành quy định cấm hút thuốc lá nơi công cộng, nhưng nhìn chung tỷ lệ người hút thuốc lá trên tổng số dân vẫn còn cao và người hút thuốc lá phân bố ở tất cả các độ tuổi khác nhau.
⦁ Một trong các nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ người hút thuốc lá còn cao là do khả năng dễ tiếp cận với thuốc lá và do giá bán lẻ thuốc lá còn thấp. Giá bán lẻ thuốc lá thấp là do thuế TTĐB chưa cao. Đối với mặt hàng thuốc lá, thuế suất thuế TTĐB hiện hành là 75% tính trên giá bán chưa có thuế GTGT và chưa có thuế TTĐB. Với việc áp dụng mức thuế suất này thì tỷ lệ thuế trong giá bán lẻ chỉ chiếm khoảng 36% giá bán lẻ thuốc lá, trong khi trung bình của nhiều nước trên thế giới là 56%, thấp hơn so với nhiều nước ở khu vực ASEAN.
⦁ Việc quy định thuế suất thuế TTĐB đối với một số mặt hàng chưa thực sự phù hợp, chưa đáp ứng yêu cầu điều tiết, hướng dẫn tiêu dùng và hướng tới bảo vệ môi trường: Theo quy định của Luật Thuế TTĐB hiện hành, mặt hàng xe ô tô vừa chở người, vừa chở hàng áp dụng mức thuế suất thuế TTĐB thấp hơn đối với xe ô tô chở người có cùng dung tích xi lanh (gồm 3 mức 15%, 20% và 25%), trong khi xe chở người có 8 mức thuế suất từ 35% đến 150%. Do có thuế suất thấp hơn, nên nhiều người tiêu dùng đã có xu hướng chuyển sang sử dụng xe bán tải, dẫn tới số lượng xe ô tô vừa chở người, vừa chở hàng nhập khẩu và tiêu dùng tăng nhanh trong những năm qua. Trong khi đó, thực tế là loại xe này vừa tiêu hao nhiều nhiên liệu, vừa chiếm nhiều diện tích khi tham gia giao thông.

Đề xuất, khuyến ngh

Nhằm góp phần hạn chế tối đa những tồn tại, bài viết đề xuất một số giải pháp sau:

⦁ Mở rộng đối tượng chịu thuế TTĐB: Trên cơ sở phân loại các nhóm mặt hàng cần thực hiện chủ trương điều tiết đúng hướng sản xuất, tiêu dùng và phân phối thu nhập để đưa thêm một số hàng hóa, dịch vụ và đánh thuế TTĐB. Hiện nay, ở Việt Nam có khá nhiều mặt hàng là tiêu dùng cao cấp, nhưng chưa bị đánh thuế TTĐB (như mỹ phẩm cao cấp, vàng bạc, đá quý, dịch vụ thẩm mỹ viện…). Do vậy, cần nghiên cứu để dần đưa các hàng hóa, dịch vụ này vào diện chịu thuế TTĐB, bởi đây là những loại hàng hóa, dịch vụ cao cấp mà thành phần sử dụng đa số là những người có thu nhập cao trong xã hội. Việc mở rộng diện chịu thuế TTĐB với những hàng hóa dịch vụ này sẽ góp phần điều tiết thu nhập, định hướng tiêu dùng, mở rộng thêm được nguồn thu, góp phần tăng tỷ trọng thu thuế TTĐB trong tổng thu NSNN.
⦁ Nghiên cứu điều chỉnh thuế suất thuế TTĐB: Cần điều chỉnh thuế suất thuế TTĐB hợp lý để thực hiện các mục tiêu của thuế TTĐB là rõ ràng, khuyến khích sử dụng hàng hóa thân thiện với môi trường, tăng điều tiết đối với các hàng hóa có hại để giảm sản xuất kinh doanh và tiêu dùng các hàng hóa này. Trong thời gian tới, thuế suất thuế TTĐB nên điều chỉnh thuế suất thuế TTĐB, cụ thể:
⦁ Đối với xe ô tô dưới 24 chỗ vừa chở người vừa chở hàng: Hiện tại, những loại xe này đang áp dụng mức thuế suất thuế TTĐB thấp nên số lượng xe loại này (nhất là loại xe bán tải có 5 chỗ ngồi) ngày càng phổ biến. Trong khi đó, loại xe này cũng gây ra nhiều vấn đề về môi trường, giao thông và các vấn đề xã hội khác, vì cũng sử dụng nguyên liệu là xăng, dầu, kích thước lớn… do đó, cần xem xét tăng mức thuế suất thuế TTĐB đối với mặt hàng này. Mức thuế suất thuế TTĐB đối với ô tô dưới 24 chỗ vừa chở người vừa chở hàng cũng giống như các loại xe cùng số chỗ ngồi, cùng dung tích và cùng loại nhiên liệu.
⦁ Đối với xe sử dụng năng lượng điện cần quy định rõ hơn loại xe chạy bằng năng lượng điện đang được ưu đãi thuế suất so với xe chạy bằng nhiên liệu xăng để tránh các trường hợp hiểu nhầm trong thực hiện. Cụ thể, loại xe chạy bằng xăng kết hợp với năng lượng điện, năng lượng sinh học đang được áp dụng thuế suất thuế TTĐB chỉ bằng 70% loại xe chạy bằng xăng, do vậy, cần quy định rõ chỉ áp dụng đối với xe có 2 động cơ, trong đó động cơ sử dụng năng lượng điện là chủ yếu, động cơ chạy bằng xăng mang tính dự phòng khi hết điện (tức xe có hệ thống sạc điện riêng). Quy định này không áp dụng đối với xe sử dụng năng lượng điện nhưng lại chuyển hóa từ xăng.
⦁ Hiện hành thuế suất thuế TTĐB đối với xe ô tô chạy bằng điện, loại chở người từ 9 chỗ trở xuống, áp dụng thuế suất 15%; Loại từ 10 đến dưới 16 chỗ, áp dụng thuế suất 10%; Loại từ 16 đến dưới 24 chỗ, áp dụng thuế suất 5%. Trên thực tế, có một số nước trên thế giới không đánh thuế TTĐB đối với ô tô chạy bằng điện, một số nước đánh thuế TTĐB rất thấp đối với ô tô loại này. Việt Nam cần nghiên cứu giảm thuế suất thuế TTĐB đối với ô tô loại này, để góp phần để khuyến khích sử dụng xe ô tô thân thiện với môi trường.
⦁ Đối với mặt hàng bia, rượu: Hiện nay, mức giá bia, rượu của Việt Nam vẫn còn ở mức thấp, bên cạnh các yếu tố chất lượng, giá thành thì mức điều tiết thu nhập của thuế TTĐB cũng là một yếu tố dẫn đến hiện tượng này. Khi đó, việc tiếp cận với các hàng hóa này trong xã hội quá dễ dàng, dẫn đến nhiều hệ lụy về sức khỏe, lối sống, xã hội, môi trường… Do đó, cần tăng mức thuế suất thuế TTĐB đối với hàng hóa này.
⦁ Đối với thuốc lá: Mức thuế TTĐB của Việt Nam thấp, nên thực tế thuế TTĐB chỉ chiếm khoảng hơn 35% so với giá bán thuốc lá. Do vậy, để đạt mục tiêu giảm tiêu dùng thuốc lá, nên nghiên cứu phương án tăng mức thuế TTĐB đối với thuốc lá, có thể lựa chọn phương án là tăng thuế suất thuế TTĐB đối với thuốc lá hoặc đánh thuế hỗn hợp, bên cạnh đánh thuế TTĐB đối với thuốc lá thì áp dụng mức thuế tuyệt đối cho 1 đơn vị sản phẩm thuốc lá bán ra. Việc áp dụng thuế hỗn hợp đối với thuốc lá hiện đã được khá nhiều nước áp dụng.

(Nguồn: Tapchitaichinh.vn; Xem chi tiết tại đây)

IV. Quyết giãn giảm 29 khoản phí, lệ phí hết ngày 30/06/2021

Được sự đồng ý của Thủ tướng Chính phủ, ngày 29/12/2020, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 112/2020/TT-BTC quy định mức thu một số khoản phí, lệ phí nhằm hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, bảo đảm an sinh xã hội ứng phó với dịch Covid-19. Theo đó, từ ngày 01/01/2021 đến hết ngày 30/06/2021, 29 loại phí, lệ phí tiếp tục được giảm với mức giảm từ 50 – 100%.

Thông tư nêu rõ, năm 2020, đại dịch Covid-19 xuất hiện và tác động tiêu cực đến nhiều mặt của đời sống kinh tế – xã hội của nước ta. Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, giải pháp để hạn chế tác động của dịch bệnh; quyết tâm thực hiện “mục tiêu kép” – vừa tập trung thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, tạo sức bật cho nền kinh tế và bảo đảm đời sống của nhân dân; vừa phòng chống dịch bệnh.

Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước và các quy định về pháp luật phí, lệ phí, Bộ Tài chính đã chủ động, tích cực, khẩn trương, chủ trì phối hợp với các bộ, cơ quan ngang bộ rà soát kịp thời ban hành 21 thông tư giảm phí, lệ phí nhằm hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, bảo đảm an sinh xã hội ứng phó với dịch Covid-19.

Theo đó, Bộ Tài chính đã thực hiện điều chỉnh giảm mức thu 29 khoản phí, lệ phí với thời hạn giảm đến hết ngày 31/12/2020.

Năm 2021, trước dự báo kinh tế thế giới sẽ tiếp tục chịu tác động nghiêm trọng của đại dịch Covid-19, làm suy giảm dòng vốn đầu tư, thương mại, nguồn nhân lực, các kết nối cung ứng và ảnh hưởng lớn đến tâm lý người tiêu dùng. Trong nước, điều kiện kinh tế – xã hội còn nhiều khó khăn, một số lĩnh vực vẫn đang tiếp tục chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch Covid-19.

Trong bối cảnh đó, để tiếp tục hỗ trợ doanh nghiệp và người dân chịu ảnh hưởng của dịch Covid-19, ngày 20/11, Bộ Tài chính đã có đề xuất xin ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về chủ trương gia hạn đối với các khoản phí, lệ phí đã điều chỉnh giảm năm 2020 (tại 21 Thông tư của Bộ Tài chính) được tiếp tục áp dụng đến hết ngày 30/6/2021. Chính phủ đã chấp thuận đề xuất của Bộ Tài chính.

Ngày 29/12, Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 112/2020/TT-BTC quy định mức thu một số khoản phí, lệ phí nhằm hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, bảo đảm an sinh xã hội ứng phó với dịch Covid-19. Theo đó, kể từ ngày 01/01/2021 đến hết ngày 30/06/2021, 29 loại phí, lệ phí tiếp tục được giảm với mức giảm từ 50–100%.

Bộ Tài chính cũng nêu rõ, ngoài mức thu các khoản phí, lệ phí quy định tại Thông tư số 112/2020/TT-BTC, các nội dung về: phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng; tổ chức thu phí, lệ phí; các trường hợp miễn, không phải nộp phí, lệ phí; kê khai, nộp phí, lệ phí; mức thu các khoản phí, lệ phí; quản lý, sử dụng phí, lệ phí; chứng từ thu, công khai chế độ thu phí, lệ phí và các nội dung khác liên quan không quy định tại Thông tư này thực hiện theo quy định tại các Thông tư gốc; Luật Quản lý thuế và Nghị
định số 126/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Quản lý thuế.

Từ ngày 01/07/2021 trở đi, mức thu của 29 khoản phí, lệ phí nêu trên sẽ tiếp tục được áp dụng thực hiện theo quy định tại các Thông tư gốc.

(Nguồn: Tapchitaichinh.vn; Xem chi tiết tại đây)

V. Quản lý nhà nước đối với thuế bảo vệ môi trường: Kinh nghiệm một số quốc gia và bài học cho Việt Nam

Bài viết này đã nghiên cứu kinh nghiệm thực tế của 4 nước điển hình trên thế giới, gồm Đan Mạch, Hà Lan, Hàn Quốc và Singapore trong quản lý nhà nước đối với thuế bảo vệ môi trường (BVMT), cụ thể trong xây dựng và ban hành các văn bản pháp luật, tổ chức bộ máy quản lý nhà nước, tổ chức thực hiện và thanh tra, kiểm tra thực hiện thuế bảo vệ môi trường.

Trên cơ sở các kinh nghiệm thực tế này, một số bài học kinh nghiệm đã được rút ra cho Việt Nam trong quản lý nhà nước về thuế bảo vệ môi trường.

Luật thuế bảo vệ môi trường (BVMT) số 57/2010/QH12 (được Quốc hội khóa XII kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 15/11/2010 – có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2012) là sự thể chế hóa chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về bảo vệ môi trường. Qua thực tế triển khai, chính sách thuế BVMT cơ bản đã đạt được các mục tiêu, yêu cầu đề ra như: Đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế bền vững, khuyến khích phát triển kinh tế đi liền giảm ô nhiễm môi trường…

Tuy nhiên, do chính sách thuế BVMT ở Việt Nam mới nên trong quá trình triển khai thực hiện đã phát sinh những vướng mắc và hạn chế, nhằm thực hiện chủ trương, chính sách của Nhà nước về BVMT, về phát triển bền vững và về mục tiêu thực hiện cải cách thuế BVMT thì thuế BVMT cần được nghiên cứu, đánh giá một cách tổng thể, nghiên cứu kinh nghiệm của các nước trên thế giới, từ đó có giải pháp khắc phục những hạn chế, vướng mắc, hoàn thiện trong thời gian tới.

Cơ sở lý luận

Tổng quan về quản lý nhà nước đối với thuế bảo vệ môi trường

Về khái niệm, có nhiều định nghĩa khác nhau về thuế môi trường, tùy thuộc vào luật pháp của mỗi gia hay khu vực. Tại Việt Nam, khoản 1 Điều 2 Luật Thuế BVMT 2010 định nghĩa “Thuế BVMT là loại thuế gián thu, thu vào sản phẩm, hàng hóa khi sử dụng gây tác động xấu đến môi trường”. Theo đó, thuế BVMT tại Việt Nam tập trung chủ yếu vào các hoạt động sản xuất, nhập khẩu một số sản phẩm có thể gây tác động tiêu cực tới môi trường và sức khỏe con người.

Quản lý nhà nước (QLNN) ra đời cùng với sự ra đời của Nhà nước, được thực hiện bởi các cơ quan hành pháp theo quy định. Thuế nói chung và thuế BVMT nói riêng là một trong những đối tượng quản lý của nhà nước. Một cách khái quát, có thể hiểu “QLNN đối với thuế BVMT là quá trình tác động có mục đích, có ý thức của Nhà nước vào việc huy động các nguồn thu từ thuế BVMT, tập trung vào ngân sách nhà nước (NSNN) thông qua các văn bản pháp lý, các phương pháp và các tổ chức, các cơ quan chức năng nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội” (Nguyễn Hoàng, 2013).

Từ khái niệm trên cho thấy, trong QLNN đối với thuế BVMT như sau: Chủ thể quản lý thuế BVMT là Nhà nước, với cơ quan lập pháp thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu, xây dựng hệ thống pháp luật liên quan đến thuế BVMT; cơ quan hành pháp (cơ quan thuế, cơ quan hải quan) đảm nhận công tác thu và nộp thuế BVMT; các cơ quan chuyên môn hỗ trợ cơ quan hành pháp tổ chức và thực hiện thu thuế BVMT.

Nội dung quản lý nhà nước về thuế bảo vệ môi trường

Đối tượng QLNN là hệ thống các chính sách liên quan và cơ chế hoạt động của bộ máy thi hành chính sách. Vì vậy, QLNN có tác động rất lớn và lâu dài đối với nguồn thu của NSNN. Các nội dung chính của hoạt động QLNN đối với thuế BVMT gồm:

* Xây dựng và ban hành các văn bản pháp luật về thuế BVMT

Cách thức, trình tự xây dựng và ban hành là ba bước chính để cho ra đời các văn bản luật nói chung, trong đó có luật thuế. Trong ba bước này, các chủ thể với những vị trí, chức năng và quyền hạn khác nhau sẽ tiến hành liên tiếp nhiều hành vi có mối quan hệ chặt chẽ với nhau để nhằm mục đích biến những kế hoạch, mục tiêu và mong muốn của giai cấp cầm quyền thành những quy tắc mang tính chất pháp lý được thể hiện dưới hình thức văn bản pháp luật.

Nhìn chung, quy trình xây dựng các văn bản nói chung và văn bản thuế nói riêng gồm 6 giai đoạn: Lập chương trình xây dựng văn bản pháp luật, soạn thảo, thẩm định, thẩm tra, thông qua và cuối cùng là công bố văn bản luật (OECD, 2011; Bachus, 2017).

* Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về thuế bảo vệ BVMT.

Tổ chức bộ máy QLNN về thuế BVMT chính là việc xác định cơ cấu tổ chức bộ máy sao cho phù hợp với nguồn lực hiện có để có thể phân bổ nguồn lực một cách hiệu quả nhất trong công tác tuyên truyền, thực thi luật thuế. Từ đó, hệ thống QLNN về thuế BVMT mới đảm bảo tính khoa học, thống nhất, đầy đủ để quản lý thuế hiệu quả. Có như vậy, các chính sách, pháp luật thuế BVMT sẽ được tuân thủ, bảo đảm thu đúng, thu đủ cả về thời gian và số lượng tiền thuế vào ngân sách nhà nước và phù hợp với thực tế (OECD, 2011; Nguyễn Hoàng, 2013).

Tổ chức bộ máy QLNN về thuế BVMT cần dựa trên nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước, trong đó tuân theo các quy định về phân chia địa giới giữa các tỉnh, thành phố, huyện, xã… Hiện nay, ở Việt Nam, đối với thuế BVMT đang áp dụng nguyên tắc quản lý theo địa giới hành chính, bao gồm: Tổng cục Thuế (tại cấp Trung ương), Cục thuế các tỉnh, thành phố (tại cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương), Chi cục thuế (tại cấp huyện) và bộ phận quản lý thuế (tại xã, phường, hoặc liên xã, liên phường thuộc chi cục thuế quận, huyện tại cấp xã).

* Tổ chức thực hiện thuế BVMT.

Thực hiện pháp luật môi trường được là một quá trình hoạt động có mục đích của các cơ quan nhà nước, các tổ chức kinh tế – xã hội và mọi công dân nhằm đưa các quy phạm pháp luật môi trường trở thành những hành vi thực tế hợp pháp. Thực hiện pháp luật bao gồm bốn hình thức, đó là: (i) tuân thủ pháp luật, (ii) thi hành pháp luật, (iii) sử dụng pháp luật, và (iv) áp dụng pháp luật. Thực hiện pháp luật bao gồm các hoạt động như ban hành văn bản quy phạm pháp luật; thực hiện tuyên truyền, giáo dục; tổ chức thực thi pháp luật; kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật; xử lý các vi phạm pháp luật; sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy phạm khi không còn phù hợp.

* Thanh tra, kiểm tra thực hiện thuế BVMT.

Hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế BVMT do các cơ quan thuế hoặc các cơ quan hành chính có thẩm quyền thực hiện đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân có phát sinh hoạt động liên quan đến nghĩa vụ thuế. Nội dung của hoạt động thanh tra kiểm tra liên quan đến việc chấp hành pháp luật thuế BVMT.

Hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế BVMT có vai trò quan trọng và mang lại lợi ích rất lớn đối với quốc gia như: (i) Làm tăng cường tính tự giác của các chủ thể phát sinh nghĩa vụ đóng thuế trong xã hội; Đảm bảo với người nộp thuế rằng luôn có một cơ quan quản lý nhà nước bên cạnh và giám sát việc thực hiện nghĩa vụ đóng thuế của họ, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật; (ii) Công tác kiểm tra đảm bảo phát hiện kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật thuế BVMT để có các biện pháp ngăn chặn, xử lý, răn đe nhằm chống thất thu thuế cho ngân sách nhà nước và đảm bảo khoản ngân sách chi cho BVMT, đảm bảo thực hiện nghiêm túc pháp luật về thuế BVMT.

Kinh nghiệm một số quốc gia trên thế giới về quản lý nhà nước đối với thuế bảo vệ môi trường

QLNN đối với thuế BVMT từ lâu đã được các nhà nghiên cứu, các học giả nước ngoài đi sâu nghiên cứu cả về mặt lý luận và thực tiễn. Bài viết đánh giá thực tiễn QLNN đối với thuế BVMT ở một số quốc gia như sau:

Đan Mạch

Đan Mạch là một trong những nước phát triển đã tiến hành thu thuế BVMT đối với các hoạt động gây ô nhiễm môi trường đầu tiên, và cũng là nước có nhiều kinh nghiệm QLNN đối với thuế BVMT ngay từ những năm 1990. Trong những năm gần đây về phát triển kinh tế cùng bùng nổ dân số đã khiến môi trường các nước phát triển ô nhiễm nghiêm trọng, QLNN đối với thuế BVMT ngày càng được thắt chặt.

Cụ thể như Đan Mạch tiến thành thu thuế BVMT đối với một số hoá chất có gốc Nox, Sox, NH4, CO hay các hoá chất sử dụng trong nông nghiệp như thuốc trừ sâu, thuốc diệt nấm. Trước thực tế đó, Đan Mạch đã áp dụng các biện pháp QLNN, thực hiện các biện pháp điều chỉnh thuế BVMT để giảm thiểu ô nhiễm môi trường đồng thời góp phần phát triển kinh tế xã hội bền vững (Hogg và các cộng sự, 2016).

QLNN đối với thuế BVMT tại Đan Mạch được thực hiện khá đồng bộ, từ việc tổ chức bộ máy QLNN đến xây dựng các văn bản pháp luật, thuế suất về thuế BVMT, từ khâu tổ chức thực hiện thuế BVMT đến công tác thanh tra, kiểm tra kết quả thực hiện về thuế.

Đan Mạch quy định các mức thuế BVMT cụ thể cho từng sản phẩm khi sử dụng gây tác động xấu với môi trường. Cụ thể như đối với thuốc trừ sâu, sau khi xác định được mức độc tính liên quan đến sức khoẻ con người, khuếch tán và đa dạng sinh học, mức thuế là 14,36 EUR/đơn vị độc tính (đã có thay đổi so với năm 2013). Thuế BVMT đối với sản phẩm thuốc trừ sâu được chi trả bởi các nhà sản xuất và nhập khẩu thuốc trừ sâu. Hay như thuế BVMT đối với việc chôn lấp chất thải được quy định trong văn bản pháp luật về thuế (năm 2015) là 63,67 EUR/tấn.

Để phát huy hiệu quả QLNN đối với thuế BVMT, chính phủ Đan Mạch đã từng bước hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về thuế cho các sản phẩm, dịch vụ. Ngoài ra, Đan Mạch đã tổ chức bộ máy QLNN về thuế BVMT khoa học, phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chuyên môn, đồng bộ trong nguyên tắc quản lý về thuế. Trên cơ sở về bộ máy QLNN và hệ thống các văn bản pháp luật về thuế BVMT, Đan Mạch đã thực hiện thuế BVMT thực sự có hiệu quả.

Đan Mạch sử dụng thuế BVMT như công cụ hỗ trợ đối với hoạt động BVMT và phát triển kinh tế. Năm 2013, tổng thu từ thuế BVMT tại Đan Mạch đã chiếm 4,25% tổng GDP, đạt mức thuế môi trường cao nhất trong 10 năm kể từ năm 2004. Ngoài ra, tổ chức thực hiện thuế BVMT được Đan Mạch xem như là công cụ điều tiết hành vi của người dân (ví như khuyến khích người dân sử dụng nước tiết kiệm, thải rác ít, ứng dụng khoa học trong xử lý nước thải và chất thải). Điều đó cho thấy, những giải pháp tăng cường QLNN về thuế BVMT đã đạt được những kết quả to lớn.

Song song với quá trình tổ chức thực hiện thuế BVMT, chính phủ Đan Mạch chú trọng thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra thực hiện thuế BVMT. Đan Mạch được xem là một trong những quốc gia đi đầu trong việc ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu, đầu tư cơ sở hạ tầng và áp dụng quản lý rủi ro trong thanh tra, kiểm tra việc thực hiện về thuế BVMT.

Hà Lan

Tại Hà Lan, thuế BVMT phần lớn là thuế đánh vào năng lượng. Năm 2013, 58,3% tổng doanh thu thuế môi trường là từ thuế đánh vào năng lượng. Những điều chỉnh thuế BVMT là nhằm phù hợp với tình hình thực tế. QLNN của Hà Lan đối với thuế BVMT đã phát huy hiệu quả trong tăng thu ngân sách, đảm bảo các hoạt động bảo vệ, chăm sóc môi trường và hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực từ môi trường đến sức khỏe cũng như môi trường sống của người dân (Hogg và các cộng sự, 2016).

Hà Lan đã xây dựng hệ thống văn bản pháp luật quản lý chặt chẽ đối với thuế BVMT và cả quá trình thực hiện cũng như kiểm tra công tác thuế. Hệ thống văn bản quy định về thuế năng lượng, nhiên liệu được xây dựng khá cụ thể đối với các sản phẩm, như xăng dầu, than đá, ga tự nhiên, điện. Hầu hết các mức thuế BVMT đều nằm trong mức trung bình của EU-28.

Các chính sách miễn giảm và hoàn thuế BVMT cũng được quy định cụ thể trong hệ thống các văn bản pháp luật. Năm 2013, Hà Lan có điều chỉnh về thuế BVMT đối với việc sản xuất điện trong thoả thuận năng lượng tiếp tục áp dụng miễn thuế đối với than sử dụng cho sản xuất điện vào năm 2016. Ngoài ra, năm 2013 Hà Lan đã áp dụng chính sách phụ thu thuế năng lượng đối với khí đốt và điện tự nhiên để tài trợ cho chương trình năng lượng tái tạo. Các mức thuế môi trường áp dụng hầu hết được xây dựng tăng đều đặn trong giai đoạn 2013-2016.

Về tổ chức bộ máy quản lý thuế BVMT, Hà Lan áp dụng cơ chế tổ chức mang tính phân chia trách nhiệm. Trách nhiệm, vai trò thiết lập ra các văn bản pháp luật, tổ chức bộ máy và nguyên tắc thực hiện thuộc về cấp trung ương. Cấp tỉnh và địa phương chịu trách nhiệm thực hiện theo các quy định của cấp trên. Công tác thanh tra, kiểm tra thực hiện thuế BVMT được tiến hành dưới sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp quản lý. Việc phân cấp quản lý thuế BVMT tại Hà Lan làm giảm tải gánh nặng cho từng cấp quản lý.

Hàn Quốc

Năm 1990, Hàn Quốc chính thức tách Luật BVMT thành các bộ luật riêng biệt, quy định về các mức phí tạo thành công cụ quản lý trong cả kinh tế và BVMT tại Hàn Quốc. Một số khoản phí chính hiện đang được áp dụng như: phí BVMT không khí, phí BVMT nước, phí quản lý rác thải. Trong đó, các quy định về phí BVMT không khí được áp dụng cho các đối tượng như phương tiện xe ô tô lớn, nhà xưởng có nhiều chất thải công nghiệp.

Phí BVMT nước được thu gián tiếp thông qua các cơ quan hành chính địa phương về phí khai thác nguồn nước ngầm của khu vực. Phí quản lý rác thải được quy định thu từ việc bán túi ni lông đựng rác thải, nguồn thu này được sử dụng cho tái chế và xử lý chất thải không tái chế. Ngoài ra, thuế môi trường ở Hàn Quốc cũng được thực hiện đối với nguồn nhiên liệu như dầu Diesel (23,3 KRW/lít), dầu nhẹ (9KRW/lít), xăng không chì là 94,5 KRW/lít.

Về tổ chức bộ máy quản lý môi trường tại Hàn Quốc, Bộ Môi trường Hàn Quốc là cơ quan QLNN có trách nhiệm chủ trì thực thi những quy định của Luật thuế BVMT; các chính quyền địa phương có vai trò quan trọng trong thực hiện các chính sách và hoạt động QLNN về thuế BVMT

Toà án hành chính, dân sự và hình sự có trách nhiệm thi hành các Luật về môi trường, xử lý các trường hợp vi phạm được chỉ ra từ quá trình thanh tra, kiểm tra thuế BVMT. Chính quyền các địa phương có quyền kiểm tra thực hiện thuế, phê duyệt hoặc thi hành các sắc lệnh, trong có có các sắc lệnh hành chính bao gồm đình chỉ hoạt động kinh doanh, thu hồi giấy phép, đóng cửa các cơ sở trong trường hợp phát hiện vi phạm về thuế BVMT. Bộ máy quản lý về thuế BVMT Hàn Quốc được đánh giá là chuyên nghiệp và tạo điều kiện cho chính quyền địa phương chủ động trong việc tổ chức thực hiện cũng như tổ chức thanh tra, kiểm tra thuế BVMT đối với các đối tượng liên quan.

Singapore

Singapore đã xây dựng hệ thống văn bản pháp luật, cũng như tổ chức bộ máy quản lý và thực hiện nghiêm túc thuế BVMT. Singapore không ngừng điều chỉnh, hoàn thiện hệ thống văn bản, hệ thống tổ chức thuế BVMT đảm bảo thuế BVMT phù hợp với điều kiện và bối cảnh kinh tế và xã hội của quốc gia.

Thuế BVMT của Singapore áp dụng thu đối với việc sử dụng năng lượng hoặc nhiên liệu, trong đó mức thuế suất đối với nhiên liệu như xăng dầu, than đá được xác định căn cứ vào hàm lượng lưu huỳnh trong các sản phẩm. Hệ thống thuế BVMT tại Singapore vận hành đảm bảo thực hiện các chiến lược quan trọng của quốc gia, trong đó, có nội dung xây dựng hình ảnh với bộ máy cơ quan thi hành thuế đáng tin cậy. Bộ máy tổ chức quản lý thuế được xây dựng từ cơ sở đến trung ương với nguyên tắc luôn chủ động hỗ trợ tuân thủ và có những hành động kịp thời, hiệu quả ngăn chặn hành vi không tuân thủ, đảm bảo công bằng cho mọi người dân.

Bên cạnh việc xây dựng bộ máy quản lý thuế khoa học và có hiệu quả, cơ quan thuế BVMT Singapore còn chủ động xây dựng chiến lược và cách thức thanh tra, kiểm tra thuế BVMT dựa trên đánh giá rủi ro tuân thủ, phác thảo những sản phẩm áp thuế BVMT có khả năng sai phạm (xác định các sai phạm thường gặp). Từ đó, cơ quan thuế Singapore thanh tra, kiểm tra chấp hành thuế với kết quả chính xác hơn, đảm bảo công bằng xã hội và tiết kiệm chi phí.

Phí BVMT tại Singapore được đánh giá là một công cụ hiệu quả trong việc định hướng hành vi của chủ thể tiêu dùng (khuyến khích tiêu thụ các sản phẩm an toàn đối với môi trường), cơ sở sản xuất theo hướng ngày càng giảm thiểu ô nhiễm môi trường, áp dụng khoa học công nghệ sạch, nguyên liệu mới vào sản xuất cũng như xử lý chất thải. Ngoài ra, phí BVMT tại Singapore giúp quốc gia tăng hiệu quả sử dụng nguồn tài nguyên, hạn chế rác thải.

Kinh nghiệm đối với Việt Nam

Trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm của các nước về QLNN đối với thuế BVMT, một số bài học kinh nghiệm được rút ra cho Việt Nam như sau:

⦁ Thứ nhất, về nguyên tắc đánh thuế BVMT, quá trình quyết định đối tượng chịu thuế BVMT cần thực hiện theo nguyên tắc người nào sử dụng sản phẩm dịch vụ gây ô nhiễm môi trường người đó phải nộp thuế.
⦁ Thứ hai, thuế BVMT là công cụ kinh tế quan trọng và có ý nghĩa lâu dài, vì vậy cần phải thực hiện từng bước một cách cẩn trọng. Thực tế, ở Việt Nam cho thấy, hệ thống pháp lý liên quan chưa hoàn thiện, do đó nhiệm vụ cấp thiết và quan trọng hiện nay là xây dựng và hoàn thiện hành lang pháp lý, môi trường luật thuế nói chung, tạo điều kiện phát huy hiệu quả hệ thống các văn bản pháp luật về thuế BVMT nói riêng. Môi trường pháp lý phải phù hợp với tình hình kinh tế, chính trị xã hội, đồng thời phải đảm bảo rõ ràng, minh bạch giữa các luật, không chồng chéo giữa các quy định về luật thuế, luật môi trường và các văn bản quy định về thuế BVMT.
⦁ Thứ ba, để quản lý tốt thuế BVMT, Việt Nam cần xây dựng văn bản đầy đủ, kịp thời điều chỉnh phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội tại Việt Nam, phát huy vai trò quản lý của cơ quan nhà nước đối với thuế BVMT. Mức thuế BVMT cho từng sản phẩm cần được quy định trên cơ sở chi phí của đối tượng gây ô nhiễm, hệ thống giám sát ô nhiễm, điều kiện địa lý, tỷ lệ lạm phát. Căn cứ tính thuế phải đảm bảo đầy đủ toàn diện.
⦁ Thứ tư, trên cơ sở hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật, cần tổ chức bộ máy QLNN đối với thuế BVMT chặt chẽ, thực hiện nghiêm túc từ trung ương đến địa phương. Cần xây dựng cơ chế phối hợp giữa các cấp, các ngành có liên quan để kịp thời triển khai thực hiện văn bản thuế cũng như kịp thời giải quyết những vướng mắc, những sai phạm về thuế BVMT.
⦁ Thứ năm, học hỏi các quốc gia như Hà Lan, Hàn Quốc, Singapore trong việc xây dựng, ban hành và điều chỉnh các văn bản quy định về chi phí xử lý rác thải, xử lý ô nhiễm và trách nhiệm đối với ô nhiễm môi trường. Ban hành văn bản quy phạm pháp luật về tiêu chuẩn kỹ thuật trong xử lý ô nhiễm môi trường, công khai minh bạch khung xử phạt hành chính, xử phạt hình sự đối với các trường hợp vi phạm pháp luật về thuế BVMT. Đồng thời, xây dựng các văn bản, thực hiện các chương trình tuyên truyền về BVMT, tuyên truyền đóng góp thuế, phí BVMT để nâng cao nhận thức người dân, phấn đấu vì một quốc gia, một thế giới xanh.
⦁ Thứ sáu, rà soát kiểm tra danh mục sản phẩm chịu thuế đảm bảo tính chính xác và đầy đủ. Xuất phát từ thực tế hiện nay có nhiều sản phẩm không nằm trong danh mục sản phẩm chịu thuế nhưng quá trình sử dụng lại gây tác động xấu đến môi trường ở diện rộng, ảnh hưởng đến sinh thái tự nhiên, sức khoẻ con người như phân bón hoá học, chất tẩy rửa, chất kých thích, khí than, khí tự nhiên. Vì vậy, cần xem xét để rà soát và bổ sung kịp thời vào danh mục các sản phẩm chịu thuế BVMT, đảm bảo quản lý chặt chẽ về thuế.
⦁ Thứ bảy, học hỏi các nước phát triển trong việc ứng dụng, đồng bộ khoa học công nghệ vào công tác quản lý thuế BVMT; Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu chung về thuế BVMT, đảm bảo khả năng truy xuất dữ liệu của các đối tượng chịu thuế, từ đó có cơ sở kiểm tra đánh giá tình hình thực hiện thuế BVMT đơn giản và dễ dàng. Ngoài ra, ứng dụng hệ thống cơ sở dữ liệu, đầu tư cơ sở hạ tầng và áp dụng quản lý rủi ro trong thanh tra, kiểm tra việc thực hiện về thuế BVMT, kịp thời phát hiện và xử lý sai phạm thuế.
⦁ Thứ tám, bên cạnh việc thu thuế BVMT, việc xây dựng và triển khai thực hiện một số chính sách ưu đãi về thuế nhằm khuyến khích hành vi tiết kiệm năng lượng, giảm gánh nặng thuế cho nền kinh tế cũng là một biện pháp được nhiều quốc gia lựa chọn.
⦁ Thứ chín, kịp thời điều chỉnh mức thuế BVMT khi có sự thay đổi về kinh tế, xã hội cũng như tình hình thực tế của các ngành, các sản phẩm chịu thuế.

Nhìn chung, để phát huy hiệu quả QLNN về thuế BVMT cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp chính quyền từ trung ương đến địa phương trên cơ sở nhận được sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân; Kịp thời phát hiện điều chỉnh hệ thống văn bản pháp luật theo hướng hoàn thiện gắn với tình hình phát triển kinh tế xã hội, khoa học công nghệ cùng sự liên kết với các quốc gia trong và ngoài khu vực vì mục tiêu BVMT, phát triển bền vững.

(Nguồn: Tapchitaichinh.vn; Xem chi tiết tại đây)

VI. Bàn về khấu trừ và hoàn thuế giá trị gia tăng: Nhìn từ thực tiễn triển khai ở Việt Nam

Khấu trừ và hoàn thuế giá trị gia tăng liên quan mật thiết đến việc xác định chính xác nghĩa vụ thuế của cơ sở kinh doanh, đảm bảo quyền lợi của cơ sở kinh doanh, đồng thời, góp phần chống gian lận thuế để chống thất thu ngân sách nhà nước.

Sau hơn 20 năm triển khai áp dụng, quy định pháp luật về khấu trừ và hoàn thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam đã dần được hoàn thiện, góp phần quan trọng vào việc triển khai áp dụng thành công thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam. Trên cơ sở lý luận của khấu trừ và hoàn thuế giá trị gia tăng, bài viết phân tích quá trình điều chỉnh quy định pháp luật về khấu trừ và hoàn thuế giá trị gia tăng, cũng như đánh giá thực tiễn triển khai những quy định này trong hơn 20 năm qua ở Việt Nam. Từ đó, tác giả đề xuất một số giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật và quản lý thuế giá trị gia tăng trong thời gian tới.

Quá trình điều chỉnh quy định về khấu trừ và hoàn thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam

Kể từ khi đưa vào áp dụng ngày 01/01/1999 đến nay, quy định pháp luật về khấu trừ và hoàn thuế giá trị gia tăng (GTGT), cũng như công tác tổ chức thực hiện quản lý khấu trừ thuế và hoàn thuế đã có nhiều thay đổi theo hướng quy định pháp luật ngày càng rõ ràng, minh bạch và chặt chẽ hơn; công tác quản lý vừa hướng đến quản lý chặt chẽ ngăn ngừa gian lận thuế, vừa tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của người nộp thuế. Quá trình này có thể chia thành 5 giai đoạn cơ bản như sau:

Giai đoạn 1999 – 2008

Đây là giai đoạn đầu tiên Việt Nam áp dụng Luật Thuế GTGT trong lộ trình cải cách hệ thống thuế giai đoạn II. Cùng với việc ban hành Luật Thuế GTGT năm 1997, có hiệu lực thi hành từ 01/01/1999 thay thế Luật Thuế doanh thu, cùng với đó, quy định khấu trừ thuế và hoàn thuế GTGT cũng bắt đầu được tổ chức thực hiện.

Những nguyên tắc cơ bản về khấu trừ thuế GTGT đầu vào được quy định tại thời điểm đó vẫn còn nguyên giá trị và được áp dụng cho đến hiện nay, đó là:

⦁ (1) Thuế GTGT đầu vào sử dụng để sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT thì được khấu trừ toàn bộ; Thuế đầu vào của hàng hoá, dịch vụ dùng đồng thời cho sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT và không chịu thuế GTGT thì chỉ được khấu trừ số thuế đầu vào của hàng hoá, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT;
⦁ (2) Thuế đầu vào phát sinh trong tháng nào được kê khai, khấu trừ khi xác định số thuế phải nộp của tháng đó.

Chứng từ để xác định thuế GTGT đầu vào được khấu trừ, nguyên tắc chung, là hóa đơn GTGT mua hàng hóa, dịch vụ và chứng từ nộp thuế GTGT của hàng hóa nhập khẩu. Trong giai đoạn đầu tiên thi hành Luật Thuế GTGT năm 1997, một số trường hợp đặc biệt được khấu trừ theo tỷ lệ % trên giá mua vào.

Tỷ lệ này được điều chỉnh khá nhiều lần trong giai đoạn 1999 – 2002, dao động từ 1% – 5% áp dụng đối với các sản phẩm trồng trọt thuộc các loại cây lấy nhựa, lấy mủ, lấy dầu, mía cây, chè búp tươi, lúa, ngô, khoai, sắn; sản phẩm chăn nuôi là gia súc, gia cầm; cá, tôm và các loại thủy sản khác; hàng hoá chịu thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) cơ sở kinh doanh thương mại mua của cơ sở sản xuất để bán; tiền bồi thường của hoạt động kinh doanh bảo hiểm và đối với hóa đơn bán hàng mà người nộp thuế mua của cơ sở kinh doanh nộp thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp.

Xu hướng chung của các lần điều chỉnh này là giảm tỷ lệ khấu trừ theo tỷ lệ % trên giá mua. Thêm vào đó, cũng bỏ trường hợp cho khấu trừ theo tỷ lệ % trên giá mua đối với cơ sở kinh doanh xuất khẩu nông sản. Lý do chính của việc điều chỉnh như trên là để chống gian lận khấu trừ và hoàn thuế GTGT, bởi các lý do chính sau:

⦁ (1) Do xuất phát điểm công tác quản lý hóa đơn tại thời điểm bắt đầu áp dụng thuế GTGT còn chưa tốt, nên hộ kinh doanh nộp thuế theo phương pháp trực tiếp đã bán hóa đơn khống để cơ sở kinh doanh mua hàng khấu trừ khống để giảm thuế GTGT phải nộp;
⦁ (2) Một số cơ sở kinh doanh gian lận khấu trừ thuế GTGT bằng cách lập khống bảng kê mua nông sản để khấu trừ thuế;
⦁ (3) Trong giai đoạn đầu áp dụng đã có những trường hợp lợi dụng khấu trừ theo tỷ lệ % trên giá mua đối với nông sản xuất khẩu để chiếm đoạt ngân sách nhà nước (NSNN) từ hoàn thuế GTGT.

Về hoàn thuế GTGT, Luật Thuế GTGT năm 1997 quy định 3 trường hợp hoàn thuế GTGT, đó là:

⦁ (1) Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế được xét hoàn thuế hàng quý nếu số thuế đầu vào được khấu trừ của các tháng trong quý lớn hơn số thuế đầu ra hoặc được hoàn thuế đầu vào của tài sản cố định;
⦁ (2) Quyết toán thuế khi sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, giải thể, phá sản có số thuế nộp thừa;
⦁ (3) Quyết định xử lý hoàn thuế của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.

Giai đoạn 2003-2009

Trước tình hình diễn biến phức tạp của các hành vi gian lận về khấu trừ thuế và hoàn thuế liên quan đến các trường hợp khấu trừ theo tỷ lệ % trên giá mua, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 108/2002/NĐ-CP ngày 25/12/2002, có hiệu lực thi hành từ 01/01/2003, bãi bỏ toàn bộ quy định khấu trừ theo tỷ lệ % trên giá mua đối với:

⦁ (1) Hàng hoá, dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế GTGT mua của cơ sở kinh doanh nộp thuế GTGT theo phương pháp tính trực tiếp trên GTGT có hoá đơn bán hàng;
⦁ (2) Hàng hoá là nông sản, lâm sản, thuỷ sản chưa qua chế biến mua của cơ sở sản xuất không chịu thuế GTGT ở khâu sản xuất sử dụng hoá đơn GTGT;
⦁ (3) Hàng hoá là nông, lâm, thuỷ sản chưa qua chế biến; đất, đá, cát, sỏi, các phế liệu mua của người bán không có hoá đơn, có bảng kê;
⦁ (4) Tiền bồi thường kinh doanh bảo hiểm của nghiệp vụ bảo hiểm thuộc đối tượng chịu thuế GTGT (tính trên giá trị bồi thường bảo hiểm) thuộc trách nhiệm bồi thường của cơ sở kinh doanh bảo hiểm.

Sau giai đoạn đầu triển khai với rất nhiều vướng mắc và khó khăn trong tổ chức thực hiện Luật do lần đầu tiên áp dụng ở Việt Nam, nên chưa lường trước hết những vấn đề phát sinh với khoảng 200 văn bản hướng dẫn về thuế GTGT chỉ trong vòng hơn 3 năm tổ chức thực hiện Luật Thuế GTGT, đến năm 2003, Quốc hội thông qua Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế GTGT, trong đó, có những nội dung sửa đổi, bổ sung quan trọng về khấu trừ thuế và hoàn thuế GTGT.

Trên cơ sở đó, các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành được ban hành và tổ chức thực hiện việc khấu trừ thuế, hoàn thuế theo hướng quản lý chặt chẽ hơn; đồng thời, tạo thuận lợi hơn cho hoạt động kinh doanh của người nộp thuế. Cụ thể như:

⦁ Bổ sung quy định giới hạn tối đa thời gian kê khai khấu trừ thuế GTGT đầu vào là 3 tháng kể từ thời điểm kê khai của tháng phát sinh, để tạo thuận lợi cho cơ sở kinh doanh được kê khai khấu trừ thuế GTGT đầu vào trong trường hợp bỏ sót chưa kê khai.
⦁ Bổ sung quy định riêng và ngưỡng xét hoàn thuế GTGT đối với cơ sở kinh doanh có hàng hóa xuất khẩu, cụ thể: Cơ sở kinh doanh xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ theo thời vụ hoặc theo từng thương vụ với số lượng và giá trị lớn, nếu số thuế GTGT đầu vào của hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu chưa được khấu trừ hết trong tháng từ 200 triệu đồng trở lên thì được xét hoàn thuế theo tháng. Đồng thời, quy định rõ điều kiện để được hoàn thuế GTGT đối với hàng hóa xuất khẩu để ngăn ngừa gian lận hoàn thuế.
⦁ Bổ sung các trường hợp hoàn thuế sau: (1) Cơ sở kinh doanh đầu tư mới, đã đăng ký kinh doanh, đăng ký nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế, đang trong giai đoạn đầu tư, chưa đi vào hoạt động, nếu thời gian đầu tư từ 1 năm trở lên được xét hoàn thuế GTGT của hàng hóa, dịch vụ sử dụng cho đầu tư theo từng năm; trường hợp cơ sở có số thuế GTGT của hàng hóa, dịch vụ sử dụng cho đầu tư từ 200 triệu đồng trở lên thì được xét hoàn thuế theo quý; (2) Hoàn thuế GTGT đối với các dự án sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức; (3) Tổ chức ở Việt Nam sử dụng tiền viện trợ nhân đạo của tổ chức, cá nhân nước ngoài mua hàng hoá tại Việt Nam có thuế GTGT để viện trợ nhân đạo được hoàn lại số thuế GTGT đã trả trong giá mua hàng hoá, dịch vụ sử dụng cho dự án; (4) Đối tượng được hưởng ưu đãi miễn trừ ngoại giao mua hàng hóa, dịch vụ tại Việt Nam theo giá có thuế GTGT để sử dụng được hoàn lại số thuế GTGT đã trả ghi trên hoá đơn GTGT.

Giai đoạn 2009-2013

Sau gần 10 năm thực hiện, trên cơ sở tổng kết kết quả đạt được và những hạn chế, những nội dung không còn phù hợp điều kiện thực tiễn, Quốc hội đã thông qua Luật Thuế GTGT (sửa đổi) số 13/2008/QH12 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2009), với nhiều nội dung sửa đổi, bổ sung quan trọng cả về phạm vi áp dụng, căn cứ tính thuế, phương pháp tính thuế… trong đó, có một số nội dung sửa đổi, bổ sung quan trọng về khấu trừ và hoàn thuế GTGT. Cụ thể:

⦁ Bổ sung các quy định: (1) Thuế GTGT đầu vào của tài sản cố định sử dụng đồng thời cho sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT và không chịu thuế GTGT thì được khấu trừ toàn bộ mà không phải phân bổ như thuế GTGT đầu vào sử dụng chung của các hàng hóa, dịch vụ khác; (2) Thuế GTGT đầu vào của hàng hoá, dịch vụ bán cho tổ chức, cá nhân sử dụng nguồn vốn viện trợ nhân đạo, viện trợ không hoàn lại được khấu trừ toàn bộ.
⦁ Thời hạn được kê khai khấu trừ khấu trừ thuế GTGT đầu vào đối với trường hợp thuế GTGT đầu vào khi kê khai, khấu trừ bị sai sót được kéo dài từ “3 tháng kể từ thời điểm kê khai của tháng phát sinh” thành “6 tháng kể từ thời điểm phát sinh sai sót”, để tạo thuận lợi hơn cho người nộp thuế trong điều chỉnh những sai sót về kê khai, khấu trừ thuế GTGT đầu vào.
⦁ Bổ sung điều kiện khấu trừ thuế GTGT là “Có chứng từ thanh toán qua ngân hàng đối với hàng hóa, dịch vụ mua vào, trừ hàng hoá, dịch vụ mua từng lần có giá trị dưới 20 triệu đồng”, để góp phần ngăn chặn trường hợp tình trạng mua hóa đơn khấu trừ khống thuế GTGT đầu vào nhằm gian lận thuế.
⦁ Sửa đổi quy định về hoàn thuế cho tách biệt trường hợp hoàn thuế cho dự án đầu tư, hoàn thuế cho hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu và hoàn thuế đối với trường hợp có lũy kế số thuế đầu vào chưa khấu trừ hết. Theo đó, cơ sở kinh doanh nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế được hoàn thuế GTGT nếu trong 3 tháng liên tục trở lên có số thuế GTGT đầu vào chưa được khấu trừ hết.

Giai đoạn 2013 – 2016

Trong giai đoạn này, có một số thay đổi quan trọng về khấu trừ và hoàn thuế GTGT trên tinh thần tạo thuận lợi hơn cho hoạt động kinh doanh của người nộp thuế, quản lý chặt chẽ hơn việc khấu trừ thuế, hoàn thuế và khắc phục những bất hợp lý phát sinh trong quản lý thuế GTGT, cụ thể:

⦁ Bãi bỏ quy định thuế GTGT đầu vào của tài sản cố định sử dụng đồng thời cho sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT và không chịu thuế GTGT thì được khấu trừ toàn bộ. Theo đó, trường hợp này cũng tổng hợp chung để phân bổ theo tỷ lệ doanh thu chịu thuế trên tổng doanh thu.
⦁ Bãi bỏ quy định khống chế thời hạn kê khai, khấu trừ bổ sung tối đa 6 tháng kể từ thời điểm phát sinh sai sót. Theo đó, cơ sở kinh doanh được kê khai bổ sung thuế GTGT đầu vào bị sai sót trước khi cơ quan thuế, cơ quan có thẩm quyền công bố quyết định thanh tra, kiểm tra tại trụ sở người nộp thuế.
⦁ Cùng với quy định chuyển toàn bộ hộ, cá nhân kinh doanh sang áp dụng phương pháp trực tiếp trên GTGT, đối tượng được khấu trừ và hoàn thuế GTGT không còn hộ, cá nhân kinh doanh. Quy định này nhằm quản lý ngăn ngừa gian lận thuế GTGT từ nhóm đối tượng có rủi ro cao về gian lận khấu trừ thuế, đặc biệt là hành vi bán hóa đơn của hộ, cá nhân kinh doanh nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế.
⦁ Thời gian xác định hoàn thuế GTGT đối với trường hợp cơ sở kinh doanh nộp thuế theo phương pháp khấu trừ có lũy kế số thuế đầu vào chưa khấu trừ hết được tăng từ 3 tháng lên 12 tháng đối với cơ sở kinh doanh khai thuế GTGT theo tháng (hoặc 4 quý đối với cơ sở kinh doanh khai thuế GTGT theo quý), để giảm bớt thủ tục giải quyết hoàn thuế GTGT, giảm khả năng thuế GTGT đầu vào chỉ tạm thời chưa khấu trừ hết trong một thời gian nhất định, sau đó lại phát sinh số thuế phải nộp.

Giai đoạn 2016 – 2020

Việc khấu trừ và hoàn thuế GTGT trong giai đoạn này đánh dấu những sửa đổi, bổ sung quan trọng trong Luật số 106/2016/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế GTGT, Luật Thuế TTĐB và Luật Quản lý thuế có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2016. Theo đó, đối tượng hoàn thuế GTGT được thu hẹp lại và bổ sung thêm các điều kiện và ràng buộc về hoàn thuế GTGT cho hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu và dự án đầu tư nhằm ngăn ngừa gian lận hoàn thuế GTGT. Cụ thể:

⦁ Bãi bỏ quy định hoàn thuế GTGT đối với cơ sở nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ có lũy kế số thuế GTGT đầu vào chưa khấu trừ hết từ 12 tháng hoặc 4 quý trở lên. Những trường hợp có thuế GTGT đầu vào chưa khấu trừ hết thì chuyển sang khấu trừ vào kỳ tiếp theo.
⦁ Bổ sung 2 trường hợp sau đây không được hoàn thuế khi xuất khẩu: (1) Hàng hóa nhập khẩu để xuất khẩu; (2) Hàng hóa xuất khẩu không thực hiện xuất khẩu tại địa bàn hoạt động hải quan theo Luật Hải quan.
⦁ Bổ sung quy định số thuế GTGT được hoàn đối với hàng hóa xuất khẩu chỉ tối đa bằng 10% doanh thu xuất khẩu hàng hóa.
⦁ Sửa đổi quy định về hoàn thuế GTGT cho dự án đầu tư. Theo đó, trong những trường hợp sau đây, cơ sở kinh doanh không được hoàn thuế GTGT mà chuyển khấu trừ sang kỳ tiếp theo:
⦁ (1) Không góp đủ vốn điều lệ như đã đăng ký;
⦁ (2) Kinh doanh ngành nghề kinh doanh có điều kiện, nhưng chưa đủ điều kiện hoặc không duy trì đủ điều kiện;
⦁ (3) Dự án đầu tư khai thác tài nguyên khoáng sản cấp phép từ ngày 1/7/2016;
⦁ (4) Dự án sản xuất sản phẩm hàng hóa có tổng giá trị tài nguyên và chi phí năng lượng chiếm từ 51% giá thành sản phẩm trở lên.

Tình hình thực hiện quy định khấu trừ và hoàn thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam

Với những điều chỉnh quy định pháp luật về khấu trừ thuế GTGT, việc tính thuế GTGT phải nộp ngày càng hướng đến phản ánh đúng thực chất GTGT ở từng khâu luân chuyển của quá trình sản xuất, kinh doanh; thúc đẩy người nộp thuế thực hiện tốt chế độ kế toán, hóa đơn, chứng từ; đồng thời, từng bước tạo hành lang pháp lý chặt chẽ ngăn chặn và đấu tranh chống hành vi gian lận thuế thông qua khấu trừ khống thuế GTGT đầu vào. Những quy định pháp luật về khấu trừ thuế GTGT đã góp phần cùng với các quy định khác về quản lý thuế GTGT đảm bảo số thu NSNN từ thuế GTGT. Đặc biệt, công tác quản lý thuế GTGT ngày càng tốt hơn theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại. Nhờ vậy, thuế GTGT đã trở thành khoản thu chủ yếu và ổn định trong thu NSNN.

Bảng 1 cho thấy, ngay từ năm đầu tiên áp dụng, tỷ trọng thuế GTGT đã chiếm tới 23,9% tổng thu NSNN. Tỷ lệ này tăng lên 25,8% năm 2005 và giữ ổn định ở mức trên 30% trong suốt những năm từ 2010-2019; cá biệt, có năm lên tới 35% như năm 2010. Như vậy, trong khoảng 10 năm trở lại đây, tỷ trọng thuế GTGT đạt xấp xỉ 1/3 tổng thu NSNN. Điều này cho thấy, thuế GTGT là khoản thu quan trọng của NSNN.

Cùng với quá trình điều chỉnh quy định pháp luật về hoàn thuế GTGT theo hướng quy định rõ ràng, chặt chẽ, minh bạch để ngăn ngừa gian lận hoàn thuế, công tác quản lý hoàn thuế GTGT cũng được tổ chức thực hiện ngày một tốt hơn theo hướng đơn giản hóa thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại vào hoàn thuế GTGT với việc tổ chức thực hiện hoàn thuế GTGT qua mạng… Kết quả giải quyết số thuế được hoàn những năm qua trong mối tương quan với số thu thuế GTGT thể hiện khá rõ tác động của những thay đổi chính sách hoàn thuế GTGT và quản lý hoàn thuế GTGT.

Hình 1 và Hình 2 cho thấy, xét về số tuyệt đối, số thuế GTGT được hoàn trong giai đoạn 2010 – 2019 đều tăng qua các năm với các mức tăng khác nhau. Tuy nhiên, xét trong tương quan với số thu thuế GTGT thì tỷ lệ này khá biến động gắn với những thay đổi về chính sách thuế và công tác quản lý thuế GTGT. Cụ thể:

⦁ Trong hai năm 2010 và 2011, tỷ lệ số thuế GTGT được hoàn so với tổng số thu thuế GTGT (bao gồm cả thuế GTGT nội địa và thuế GTGT hàng nhập khẩu) ở mức xấp xỉ 25%. Tỷ lệ này tăng vọt lên xấp xỉ 35% vào năm 2012 và giảm một chút năm 2013, sau giảm xuống 25% vào năm 2014 và giữ tương đối ổn định ở mức 26,9% trong 2 năm 2015 và 2016. Một trong những nguyên nhân dẫn đến việc giảm tỷ lệ thuế GTGT được hoàn từ 2014 đến 2016 là việc thực hiện quy định đưa nông sản chưa qua chế biến, hoặc sơ chế do DN, hợp tác xã nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ bán cho DN, hợp tác xã ở khâu kinh doanh thương mại vào diện không phải kê khai, tính và nộp thuế GTGT để ngăn ngừa gian lận khấu trừ và hoàn thuế GTGT hàng nông sản xuất khẩu và bổ sung điều kiện khấu trừ thuế GTGT là phải có chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt đối với khoản mua hàng hóa, dịch vụ có giá trị từ 20 triệu đồng/lần trở lên.
⦁ Với việc bãi bỏ hoàn thuế GTGT cho DN nộp thuế theo phương pháp khấu trừ có lũy kế số thuế GTGT đầu vào chưa khấu trừ hết từ 12 tháng hoặc 4 quý trở lên (có hiệu lực từ 01/07/2016), tỷ lệ số thuế GTGT được hoàn so với số thu thuế GTGT giảm đáng kể, tỷ lệ số thuế GTGT được hoàn so với số thu thuế GTGT giảm từ 26,9% năm 2016 xuống còn xấp xỉ 24% năm 2017 và năm 2018.
⦁ Năm 2019, tỷ lệ số thuế GTGT được hoàn so với số thu thuế GTGT tăng trở lại lên 26,8%. Tình hình này có nhiều nguyên nhân, nhưng một trong những nguyên nhân quan trọng nhất đó là do gia tăng mạnh các dự án đầu tư mới năm 2019 so với các năm trước đó, điều này khiến cho số thuế hoàn cho dự án đầu tư tăng mạnh. Số liệu của Tổng cục Thống kê cho thấy, vốn đầu tư toàn xã hội năm 2019 tăng 10,3% so với năm 2018. Riêng lĩnh vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư năm 2019 đạt 20,38 tỷ USD, tăng 6,7% so với năm 2018 (Việt Dũng, 2019). Đây là con số tăng kỷ lục từ trước đến nay.

Bên cạnh những kết quả đạt được, quy định pháp luật và công tác tổ chức thực hiện khấu trừ thuế GTGT và hoàn thuế GTGT đến nay vẫn còn một số hạn chế sau:

⦁ Một là, chưa có biện pháp ngăn chặn triệt để hành vi lập DN “ma” chỉ để cung cấp hóa đơn hợp thức hóa đầu vào của DN khác, qua đó, gian lận về khấu trừ và hoàn thuế GTGT. Cần lưu ý rằng, gian lận hoàn thuế GTGT chỉ là phần nổi của tảng băng. Việc khấu trừ khống thuế GTGT làm giảm thuế GTGT phải nộp mới là phần chìm của tảng băng, làm thất thu NSNN. Những vụ án gian lận về hóa đơn được phát hiện trong những năm gần đây đều có con số tác động làm thất thu NSNN từ vài tỷ đồng đến hàng trăm tỷ đồng.
⦁ Hai là, quy định “Cơ sở kinh doanh có lũy kế số thuế GTGT đầu vào chưa khấu trừ hết theo Luật số 106/2016/QH14 được khấu trừ vào kỳ tiếp theo” mà không được hoàn thuế GTGT áp dụng đối với mọi cơ sở kinh doanh là không hợp lý, gây khó khăn với một số đối tượng sản xuất, kinh doanh và không phản ánh đúng bản chất của việc khấu trừ và hoàn thuế GTGT. Theo đó, thuế GTGT là thuế tiêu dùng, người bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ ứng tiền thuế nộp thay cho người tiêu dùng và thu lại số tiền này khi bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ. Như vậy, đối với cơ sở sản xuất những mặt hàng chịu thuế suất 5% có thể sử dụng rất nhiều đầu vào với thuế suất 10%. Với những cơ sở kinh doanh này, sẽ thường xuyên xảy ra việc không khấu trừ hết thuế GTGT đầu vào. Việc không được hoàn thuế vừa không phản ánh đúng bản chất của thuế GTGT, vừa gây khó khăn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của người nộp thuế.
⦁ Ba là, việc không cho hoàn thuế đối với hàng hóa xuất khẩu là sản phẩm được chế biến từ tài nguyên khoáng sản mà giá trị tài nguyên và chi phí năng lượng chiếm từ 51% giá thành sản phẩm trở lên còn những bất cập so với thực tế. Ý tưởng không áp dụng thuế suất 0%, không cho hoàn thuế đối với hàng hóa xuất khẩu là sản phẩm được chế biến từ tài nguyên khoáng sản mà giá trị tài nguyên và chi phí năng lượng chiếm từ 51% giá thành sản phẩm trở lên là nhằm mục tiêu khuyến khích chế biến sâu tài nguyên trước khi xuất khẩu.

Tuy vậy, do đặc tính tài nguyên, đặc điểm kỹ thuật của lĩnh vực khai thác khoáng sản và yêu cầu về sản xuất sản phẩm công nghiệp mà tỷ lệ chi phí tài nguyên và năng lượng trong giá thành sản phẩm rất khác nhau đối với mỗi loại tài nguyên và mỗi loại sản phẩm được sản xuất ra từ tài nguyên. Khi lấy tỷ lệ 51%, được coi là quá nửa, để đánh giá là chế biến chưa sâu thì không phù hợp với đặc tính tài nguyên và sản phẩm được sản xuất từ tài nguyên. Điều này gây khó khăn cho các DN xuất khẩu các sản phẩm chế biến từ khoáng sản trong nước. Ba trường hợp đặc biệt mà sản phẩm xuất khẩu được sản xuất từ tài nguyên khoáng sản vẫn được áp dụng thuế suất 0% theo Nghị định số 146/2017/NĐ-CP mới chỉ gỡ khó một phần cho các DN, chưa có giải quyết được triệt để bất cập này.

Khuyến nghị hoàn thiện quy định pháp luật về khấu trừ và hoàn thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam

Từ những phân tích, đánh giá về những kết quả đạt được và những hạn chế, bất cập trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách và pháp luật về hoàn thuế GTGT ở Việt Nam thời gian qua cho thấy, trong thời gian tới cần nghiên cứu hoàn thiện quy định về hoàn thuế GTGT và công tác tổ chức thực hiện hoàn thuế GTGT trên các phương diện sau:

⦁ Một là, tăng cường các biện pháp quản lý DN, quản lý việc phát hành và sử dụng hóa đơn của DN. Theo đó, cần phát hiện và sớm ngăn chặn những DN có dấu hiệu thành lập ra chỉ để cung cấp hóa đơn nhằm hợp pháp hóa đầu vào cho DN khác và những DN được thành lập chỉ nhằm mục đích mua bán hóa đơn. Nếu như hành vi này bị phát hiện khi mới ở mức vài công ty thì mức độ thất thu NSNN chắc chắn sẽ giảm rất nhiều. Việc nâng cao hiệu quả công tác phối hợp giữa cơ quan thuế với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quản lý hoạt động kinh doanh của các DN cũng góp phần ngăn chặn hành vi gian lận về khấu trừ và hoàn thuế GTGT.
⦁ Hai là, hoàn thiện quy định pháp luật về khấu trừ và hoàn thuế GTGT theo hướng vừa quản lý chặt chẽ để phòng chống gian lận thuế, vừa tạo môi trường đầu tư và kinh doanh thuận lợi cho hoạt động sản xuất, kinh doanh. Theo đó, cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung một số quy định pháp luật về thuế GTGT như sau:
⦁ Nên bổ sung quy định cho cơ sở sản xuất hàng hóa thuộc diện chịu thuế suất thuế GTGT 5% được hoàn thuế GTGT khi có lũy kế số thuế GTGT đầu vào chưa khấu trừ hết từ 12 tháng hoặc 4 quý trở lên. Như đã phân tích, việc không cho hoàn thuế GTGT trong trường hợp này không phù hợp với bản chất của thuế GTGT và gây khó khăn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của DN. DN sản xuất có đặc thù rất khác với DN kinh doanh thương mại là độ chuyên môn hóa về sản phẩm cao, nên đa phần các trường hợp chỉ sản xuất hàng hóa chịu thuế GTGT 5% mà không sản xuất đồng thời cả hàng hóa chịu thuế suất 10% để có thể bù trừ cho nhau.
⦁ Điển hình cho những trường hợp bị khó khăn bởi việc không được hoàn thuế GTGT trong trường hợp này là các DN sản xuất thiết bị y tế. Ví dụ như: Công ty cổ phần Thiết bị y tế Vinahankook có lũy kế số thuế GTGT đầu vào chưa khấu trừ hết từ tháng 7/2016 đến tháng 11/2019 là trên 12 tỷ đồng (Xuân Yến, 2019). Tương ứng với con số chưa khấu trừ hết mà không được hoàn thuế GTGT là số vốn DN đang bị chiếm dụng, gây khó khăn về dòng vốn kinh doanh của DN. Đối với DN kinh doanh thương mại do đặc thù có thể kinh doanh nhiều hàng hóa với các mức thuế suất khác nhau, cả 5% và 10%, mà phần lớn là 10%, nên có thể bù trừ lẫn nhau và không cần đưa vào diện hoàn thuế khi có lũy kế số thuế GTGT đầu vào chưa khấu trừ hết mà để khấu trừ vào kỳ tính thuế tiếp theo.
⦁ Nên nghiên cứu bỏ quy định không cho áp dụng thuế suất 0%, không cho hoàn thuế GTGT đối với sản phẩm xuất khẩu được chế biến từ tài nguyên khoáng sản mà giá trị tài nguyên và chi phí năng lượng chiếm từ 51% giá thành sản phẩm trở lên. Lý do của đề xuất này là: (1) Mặc dù mục tiêu khuyến khích chế biến sâu khoáng sản trước khi xuất khẩu là cần thiết, song về mặt kỹ thuật, việc xác định tỷ lệ các khoản chi phí phản ánh mức độ chế biến sâu phù hợp với từng loại khoáng sản và từng loại sản phẩm là rất phức tạp; (2) Việc không cho hoàn thuế trong trường hợp này gây khó khăn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của các ngành công nghiệp chế biến sử dụng khoáng sản khai thác trong nước.

(Nguồn: Tapchitaichinh.vn; Xem chi tiết tại đây)

VII. Quy định chung về quỹ đầu tư chứng khoán, công ty đầu tư chứng khoán

Ngày 16/11/2020, Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 98/2020/TT-BTC hướng dẫn và hoạt động quản lý quỹ đầu tư chứng khoán. Trong đó, có những quy định chung về quỹ đầu tư chứng khoán, công ty đầu tư chứng khoán.

Theo đó, quỹ đầu tư chứng khoán, công ty đầu tư chứng khoán (trừ trường hợp công ty đầu tư chứng khoán riêng lẻ tự quản lý vốn) phải được quản lý bởi công ty quản lý quỹ và các hoạt động của quỹ đầu tư chứng khoán, công ty đầu tư chứng khoán được thực hiện thông qua công ty quản lý quỹ.

Tài sản của quỹ thành viên, công ty đầu tư chứng khoán riêng lẻ phải được lưu ký tại 01 ngân hàng lưu ký. Tài sản của quỹ đại chúng, công ty đầu tư chứng khoán đại chúng phải được lưu ký tại 01 ngân hàng giám sát. Hoạt động quản lý vốn và tài sản của quỹ đại chúng, công ty đầu tư chứng khoán đại chúng phải được giám sát bởi ngân hàng giám sát.

Theo quy định của Thông tư số 98/2020/TT-BTC, tài sản của quỹ đầu tư chứng khoán, công ty đầu tư chứng khoán thuộc sở hữu của các nhà đầu tư, cổ đông tương ứng với tỷ lệ vốn góp, không phải là tài sản của công ty quản lý quỹ, ngân hàng giám sát hoặc ngân hàng lưu ký.

Công ty quản lý quỹ chỉ được sử dụng tài sản của quỹ đầu tư chứng khoán, công ty đầu tư chứng khoán để thanh toán các nghĩa vụ thanh toán của quỹ, công ty đầu tư chứng khoán, không được sử dụng để thanh toán hoặc bảo lãnh thanh toán các nghĩa vụ tài chính của công ty quản lý quỹ, ngân hàng giám sát, ngân hàng lưu ký hoặc bất kỳ tổ chức, cá nhân khác dưới mọi hình thức và trong mọi trường hợp.

Cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam không được tham gia góp vốn thành lập quỹ đầu tư chứng khoán, công ty đầu tư chứng khoán; mua chứng chỉ quỹ, cổ phiếu công ty đầu tư chứng khoán. Tổ chức tín dụng, doanh nghiệp bảo hiểm, công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ, doanh nghiệp nhà nước tham gia góp vốn thành lập quỹ, công ty đầu tư chứng khoán; mua chứng chỉ quỹ, cổ phiếu công ty đầu tư chứng khoán thực hiện theo quy định của pháp luật chuyên ngành.

Ngoài ra, cần lưu ý rằng, vốn điều lệ quỹ, vốn điều lệ công ty đầu tư chứng khoán là số vốn góp của nhà đầu tư, cổ đông và được ghi trong Điều lệ quỹ đóng, quỹ thành viên, Điều lệ công ty đầu tư chứng khoán hoặc là số vốn huy động được trong đợt phát hành chứng chỉ quỹ mở lần đầu ra công chúng.

Người điều hành quỹ là người hành nghề chứng khoán có chứng chỉ hành nghề quản lý quỹ được công ty quản lý quỹ chỉ định để quản lý, điều hành hoạt động đầu tư của quỹ, công ty đầu tư chứng khoán.

(Nguồn: Tapchitaichinh.vn; Xem chi tiết tại đây)

VIII. Ảnh hưởng của chênh lệch kế toán – thuế đến quyết toán và kiểm toán thuế thu nhập doanh nghiệp

Thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) là nguồn thu quan trọng để đảm bảo ổn định ngân sách và giúp Nhà nước thực hiện chức năng tái phân phối thu nhập. Trong khi cơ quan thuế muốn thu càng nhiều thuế nhưng doanh nghiệp (DN) thì ngược lại, vì cách xác định doanh thu, chi phí của cơ quan thuế và DN có sự khác biệt, dẫn đến lợi nhuận trước thuế thường thấp hơn thu nhập chịu thuế.

Chính sự không tương đồng này đã ảnh hưởng đến việc tính toán, lập tờ khai quyết toán thuế TNDN cuối năm tài chính và các thủ tục kiểm toán áp dụng khi thực hiện kiểm toán thuế TNDN. Nhiều DN cố gắng điều chỉnh cách ghi sổ kế toán theo quy định của thuế để tránh những rắc rối khi lập tờ khai thuế TNDN và dẫn đến thay đổi kết quả kiểm toán khoản mục thuế TNDN. Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn, bài viết khái quát và làm rõ khái niệm chênh lệch kế toán-thuế và ảnh hưởng của nó đến công tác quyết toán thuế, cũng như kiểm toán thuế TNDN.

Chênh lệch kế toán – thuế

Chênh lệch kế toán – thuế xảy ra khi kế toán và cơ quan thuế ghi nhận doanh thu và chi phí theo các cách khác nhau. Kế toán ghi nhận doanh thu và chi phí theo chuẩn mực và chế độ kế toán còn thuế ghi nhận doanh thu và chi phí theo Luật Thuế.

Các hướng dẫn chi tiết để xác định số chênh lệch giữa doanh thu, chi phí được trình bày trong Chuẩn mực kế toán số 17 và các quy định có liên quan. Theo đó, các khoản chênh lệch được chia thành hai loại, đó là chênh lệch tạm thời và chênh lệch vĩnh viễn. Cụ thể:

⦁ Chênh lệch tạm thời: Là khoản chênh lệch giữa giá trị ghi sổ của các khoản mục tài sản hay nợ phải trả trong Bảng Cân đối kế toán và là cơ sở tính thuế thu nhập của các khoản mục này (Chuẩn mực kế toán số 17).
⦁ Chênh lệch vĩnh viễn: Là chênh lệch giữa lợi nhuận kế toán và thu nhập tính thuế phát sinh từ các khoản doanh thu, thu nhập khác hoặc chi phí được ghi nhận vào lợi nhuận kế toán, nhưng không được tính vào thu nhập hoặc chi phí khi xác định thu nhập chịu thuế TNDN (Thông tư số 20/2006/TT-BTC của Bộ Tài chính).

Ảnh hưởng của chênh lệch kế toán – thuế đến công tác quyết toán thuế thu nhập doanh nghiệp

Khác biệt trong ghi nhận doanh thu giữa kế toán và thuế

Theo quy định kế toán, doanh thu được xác định tại thời điểm giao dịch phát sinh, khi chắc chắn thu được lợi ích kinh tế, hoặc được xác định theo giá trị hợp lý của các khoản được quyền nhận. Còn thời điểm xác định doanh thu theo luật thuế đối với hoạt động bán; hàng hóa, cung ứng dịch vụ là thời điểm chuyển giao quyền sở hữu hàng hóa, hoàn thành dịch vụ hoặc thời điểm lập hóa đơn bán hàng, cung cấp dịch vụ.

Ngoài ra, doanh thu để tính thu nhập chịu thuế trong một số trường hợp cụ thể được quy định trong các văn bản hướng dẫn của Bộ Tài chính. Các khoản thu được trừ ra khi xác định thuế TNDN như: tiền chuyển nhượng bất động sản, cổ tức được chia, các thu nhập khác đã tính thuế TNDN tại nguồn…

Khác biệt trong ghi nhận chi phí giữa kế toán và thuế

Do một số điểm khác nhau trong ghi nhận chi phí giữa kế toán và thuế, các khoản chi phí không hợp lý theo luật thuế sẽ bị loại ra khi tính thuế TNDN, vì vậy, chi phí theo nguyên tắc kế toán thường cao hơn chi phí theo luật thuế. Các khoản chi được trừ là những khoản chi có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của DN và có đầy đủ chứng từ, hóa đơn theo quy định.

Theo chính sách thuế hiện hành, một số khoản chi không được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế như: Tiền đồng phục vượt quá 5 triệu đồng/người/năm; Về tiền phạt vi phạm hành chính; Chi phí tiền lương của chủ DN tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên; Chi phí không có hóa đơn hoặc chứng từ không hợp lệ; Chi phí lãi vay chưa đủ góp vốn điều lệ, chi phí lãi vay của đối tượng không phải là tổ chức tín dụng hoặc tổ chức kinh tế; Chi phí công tác phí vượt quá 2 lần theo quy định của Thông tư số 78/2014/TT-BTC; Chi phí tài trợ không theo quy định của Thông tư số 78/2014/TT-BTC; Tiền chi phí quảng cáo vượt mức khống chế 15% của chi phí được trừ; Các khoản trích khấu hao, dự phòng… không đúng theo quy định của pháp luật

Minh họa ảnh hưởng của chênh lệch kế toán – thuế đến việc tính thuế thu nhập doanh nghiệp

Ngày 01.7.N, công ty sử dụng ở bộ phận quản lý DN 6 công cụ dụng cụ có tổng giá trị 60 triệu, công ty phân bổ vào chi phí 12 tháng, cơ quan thuế quy định phân bổ 20 tháng. Giả sử thuế suất thuế TNDN là 20%. Chênh lệch tạm thời được khấu trừ của công cụ, dụng cụ này là:

Tóm lại, sự khác biệt trong ghi nhận doanh thu, chi phí giữa kế toán và thuế sẽ làm phát sinh các khoản chênh lệch tạm thời và vĩnh viễn. Kế toán khi quyết toán thuế TNDN cuối năm phải nhận diện, theo dõi và tự hạch toán ra được những khoản chênh lệch này.

Lưu ý khi lập quyết toán thuế thu nhập doanh nghiệp

Thuế TNDN có liên quan đến kết quả hoạt động kinh doanh của DN. Do đó, các hồ sơ, tài liệu khi lập quyết toán thuế TNDN gồm: Tờ khai thuế; Biên bản quyết toán thuế của các năm trước; Các văn bản về thuế TNDN áp dụng riêng đối với DN: quyết định về miễn thuế, giảm thuế, hoãn thuế…; Sổ chi tiết tài khoản 3334 (nếu có), các tài liệu, chứng từ khác liên quan.

Trong đó, kế toán cần phân biệt giữa lợi nhuận kế toán và thu nhập chịu thuế, biết cách xử lý các trường hợp xảy ra chênh lệch giữa kế toán và thuế. Chẳng hạn, khi xảy ra chênh lệch tạm thời giữa kế toán và thuế, nếu thu nhập chịu thuế lớn hơn lợi nhuận kế toán, không nên hoạch toán điều chỉnh các tài khoản liên quan đến doanh thu, chi phí mà các khoản chênh lệch này sẽ ghi nhận vào tài khoản Tài sản thuế thu nhập hoãn lại (TK 243) hoặc tài khoản Thuế thu nhập hoãn lại phải trả (TK 347).

Việc nắm vững các nguyên tắc và quy định giúp kế toán viên (KTV) xác định đúng số thuế TNDN cần nộp, hỗ trợ công tác quyết toán thuế TNDN thuận lợi, hạn chế tối đa những sai sót và giúp DN tránh được việc truy thu thuế TNDN hoặc bị xử phạt do vi phạm chính sách, chế độ về luật thuế.

Ảnh hưởng của chênh lệch kế toán–thuế đến các thủ tục kiểm toán thuế thu nhập doanh nghiệp

Thuế TNDN giữ vai trò quan trọng trong việc đảm bảo ngân sách nhà nước nên ngày càng nhận được sự quan tâm của DN và của các bên liên quan. Theo đó, khi kiểm toán khoản mục thuế TNDN, các thủ tục kiểm toán thuế TNDN cần chú ý các vấn đề sau:

⦁ Thu thập thông tin ban đầu
⦁ Để có những hiểu biết ban đầu về khách hàng và xác định mức trọng yếu và rủi ro, kiểm toán viên (KTV) cần thu thập những thông tin như lĩnh vực kinh doanh, hệ thống kế toán, hệ thống kiểm soát nội bộ và chính sách thuế TNDN mà DN đang áp dụng. Đồng thời, xem xét báo cáo kiểm toán, các kết luận thanh tra – kiểm tra về thuế TNDN của năm hiện hành hay trong các năm trước.
⦁ Thực hiện các thử nghiệm cơ bản
⦁ Các thủ tục kiểm toán cần được thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ nhằm kiểm tra các cơ sở dẫn liệu liên quan đến thuế TNDN, bao gồm: E/tính hiện hữu, R&O/quyền và nghĩa vụ, C/tính đầy đủ, V/đánh giá, P&D/trình bày và thuyết minh.
⦁ Kiểm tra chính sách kế toán: KTV cần thực hiên kiểm tra việc áp dụng nhất quán các chính sách kế toán với năm trước và phù hợp với khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo tài chính được áp dụng. Trường hợp các chính sách kế toán về thuế có sự thay đổi cần kiểm tra việc tuân thủ các hướng dẫn của Chuẩn mực kế toán Việt Nam số 29.
⦁ KTV thu thập phân loại thuế TNDN hiện hành và thuế TNDN hoãn lại và đối chiếu với sổ cái: KTV thực hiện các thủ tục như Lập Bảng tổng hợp số liệu dựa trên Bảng cân đối số phát sinh của kỳ hiện tại và số liệu đã được kiểm toán của kỳ trước; Thu thập bảng chi tiết về nghĩa vụ thuế TNDN hiện hành trong đó chỉ ra số dư đầu kỳ, các khoản phát sinh trong kỳ, các khoản chi trả trong kỳ.
⦁ Đối chiếu số dư cuối kỳ với bảng tổng hợp số liệu nêu trên; Thu thập bảng chi tiết về khoản thuế TNDN hoãn lại, trong đó chỉ ra giá trị được khấu trừ chuyển sang các năm sau của các khoản lỗ tính thuế chưa sử dụng và chênh lệch tạm thời như các khoản nợ phát sinh từ việc khấu hao nhanh…
⦁ Thủ tục phân tích: KTV thực hiện thủ tục phân tích nhằm đánh giá tính thích hợp của biến động đối với tài sản thuế thu nhập hoãn lại/thuế thu nhập hoãn lại phải trả và thuế TNDN hiện hành năm nay so với năm trước.
⦁ Kiểm tra chi tiết Thuế TNDN: KTV thực hiện 3 nội dung kiểm tra cơ bản bao gồm kiểm tra chi tiết thuế TNDN hiện hành, thuế TNDN hoãn lại, Tài sản thuế thu nhập hoãn lại phát sinh từ các khoản lỗ tính thuế chưa sử dụng.
⦁ Tổng hợp kết quả kiểm toán thuế thu nhập doanh nghiệp

Các thủ tục kiểm toán cần được thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ nhằm kiểm tra các cơ sở dẫn liệu liên quan đến thuế TNDN. Do đó, trước khi đưa ra kết luận, KTV cần đánh giá lại kết quả thu thập được như tính đồng bộ và chính xác của số thuế TNDN, sự đầy đủ của các bằng chứng kiểm toán và tổng hợp các sai sót phát hiện được để đưa ra kết luận kiểm toán chính xác hơn.

Như vậy, sự khác biệt trong các tính toán giữa lợi nhuận kế toán và thu nhập chịu thuế trong quá trình xác định thuế TNDN là vấn đề xảy ra ở hầu hết các DN. Do vậy, cần được các bên liên quan xem xét thận trọng trong quá trình kê khai quyết toán thuế TNDN, cũng như quá trình thanh tra, kiểm tra, kiểm toán của các đơn vị chức năng.

(Nguồn: Tapchitaichinh.vn; Xem chi tiết tại đây)

IX. Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ở Việt Nam: Thực tiễn và giải pháp

Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là loại thuế gián thu đánh vào hàng hóa xuất khẩu và nhập khẩu. Pháp luật về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu của Việt Nam đã được điều chỉnh nhiều lần cho phù hợp với thực tiễn phát triển, đặc biệt là quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.

Tuy nhiên, quá trình thực hiện chính sách thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu cho thấy một số tồn tại, hạn chế cần được khắc phục để tăng cường hiệu lực, hiệu quả.

Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu của Việt Nam qua các giai đoạn

Trong cải cách thuế giai đoạn 1 (1986 – 1994), sắc thuế đầu tiên điều chỉnh thu ngân sách từ hoạt động xuất khẩu (XK), nhập khẩu (NK) là Luật Thuế XK, thuế NK hàng mậu dịch ban hành năm 1987. Sau đó, Luật thuế XK, thuế NK được ban hành năm 1991 đã thống nhất chế độ thu thuế XK, thuế NK, không phân biệt hàng mậu dịch hay phi mậu dịch.

Thuế suất thuế NK bao gồm thuế suất thông thường được quy định trong Biểu thuế và thuế suất ưu đãi do Chính phủ quy định để áp dụng đối với hàng hoá có xuất xứ từ những nước có ký kết các điều khoản ưu đãi trong quan hệ buôn bán với Việt Nam. Đặc biệt, biểu thuế NK được xây dựng dựa trên Danh mục mô tả và mã hàng hoá của Tổ chức Hải quan thế giới thay thế cho Danh mục hàng hoá theo Hội đồng Tương trợ Kinh tế (Khối SEV) trước đây.

Trong cải cách thuế giai đoạn 2 (1995 – 2000), Luật thuế XNK được ban hành theo Nghị quyết Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 3, ngày 20/05/1998, có hiệu lực từ ngày 01/01/1999 đã góp phần từng bước thúc đẩy tự do hoá thương mại và đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Giai đoạn 2 của chiến lược cải cách thuế được tiến hành trong bối cảnh tình hình kinh tế có nhiều thay đổi, lúc này Việt Nam đã bắt đầu tham gia vào các Hiệp định thương mại quốc tế và song phương.

Thực hiện đường lối đổi mới toàn diện của Đảng, trong đó có chính sách mở cửa hợp tác kinh tế với các nước để góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh, nâng cao năng lực sản xuất, khả năng XK và hiệu quả phát triển kinh tế, Việt Nam bắt đầu đàm phán các thỏa thuận quốc tế về thuế như Hiệp định tránh đánh thuế hai lần.

Đặc biệt, trong giai đoạn này, Việt Nam thực hiện cam kết về giảm thuế NK với ASEAN. Đây là thỏa thuận quốc tế cam kết với ASEAN với nội dung giảm thuế NK theo Hiệp định về chương trình ưu đãi về thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) kể từ khi Việt Nam trở thành thành viên của ASEAN ngày 28/07/1995.

Việt Nam xây dựng Chương trình hành động của quốc gia (IAP) để thực hiện tự do hoá thương mại vào năm 2000 với mức thuế NK là 0% theo cam kết để trở thành thành viên của Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC) ngày 14/11/1998. Những cam kết ràng buộc các mức thuế NK và giảm dần theo hướng mở cửa thị trường khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Mức độ cam kết của các thỏa thuận này là khác nhau nhưng đều có điểm chung là cắt giảm hàng rào thuế quan để hướng tới mục tiêu tự do hoá thương mại.

Trong cải cách thuế giai đoạn 3 (2001 -2010), Luật thuế XK, thuế NK số 45/2005/QH11 ngày 14/06/2005, có hiệu lực từ ngày 01/01/2006, thay thế cho Luật thuế XK, thuế NK năm 2001 để phù hợp với các cam kết quốc tế về cắt giảm thuế NK. Luật Thuế XK, Thuế NK 2005 đã sửa đổi các quy định về thuế suất, giá tính thuế, thời hạn nộp thuế để tạo điều kiện thực hiện các cam kết song phương và đa phương và phù hợp với thông lệ quốc tế; góp phần tăng cường quản lý hoạt động XNK theo cam kết quốc tế.

Luật Thuế XK, thuế NK 2005 quy định chính sách thuế tự vệ, thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp, thuế chống phân biệt đối xử nhằm đối phó kịp thời khi có những tác động bất lợi cho kinh tế nước nhà khi nền kinh tế mở cửa hơn nữa

Trong cải cách thuế giai đoạn 4 (2011 – 2020), giai đoạn đầu, Chính phủ ban hành Nghị định số 87/2010/NĐ-Cpquy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thuế XK, Thuế NK. Sau đó, nhiều quy định của Luật đã không còn phù hợp với thực tế. Do đó, ngày 06/04/2016, Quốc hội đã thông qua Luật Thuế XK, thuế NK sửa đổi, thay thế Luật Thuế XK, thuế NK năm 2005 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/09/2016) để đảm bảo các quy định về thuế XK, NK phù hợp hơn tiến trình hội nhập ngày càng sâu rộng của đất nước.

Đóng góp của thuế xuất khẩu, nhập khẩuvào phát triển kinh tế

Khi được ban hành, mỗi luật thuế đều gắn trọng trách thực hiện một số chức năng nhất định như điều tiết thu nhập, tiêu dùng, đầu tư, thu ngân sách, thúc đẩy phát triển kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế… Quá trình điều chỉnh, sửa đổi bổ sung thuế XK và NK cũng là hướng tới thực hiện các chức năng này.

Đóng góp vào thu ngân sách nhà nước

Khi phân tích thuế XK, NK, không thể tách rời với các cam kết về thuế của Việt Nam trong các FTA. Sau khi gia nhập WTO năm 2007, đến nay, Việt Nam đã tích cực ký kết và tham gia vào các hiệp định thương mại tự do (FTA).

Bên cạnh những tác động tích cực như mở rộng thị trường XNK, mở rộng cơ hội cho doanh nghiệp tham gia vào chuỗi sản xuất toàn cầu, các FTA cũng đem lại nhiều thách thức về nguồn thu ngân sách nhà nước (NSNN). Theo đó, nguồn thu ngân sách bị ảnh hưởng đáng kể khi nhiều mặt hàng có kim ngạch lớn, thuế suất cao phải cắt giảm thuế suất theo lộ trình cam kết trong các FTA.

Giai đoạn 2015-2019, số thu cân đối từ hoạt động XNK tăng, tuy nhiên tốc độ tăng không lớn (năm 2019, tăng trên 26% so với 2015). Bình quân giai đoạn này, mỗi năm số thu cân đối từ hoạt động XNK tăng trên 5%. Mức tăng này là thấp nếu so sánh với tốc độ tăng của các nguồn thu khác.

Trong những năm qua, Việt Nam thực hiện đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế và ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do (FTA) với cam kết giảm thuế NK theo lộ trình đối với nhiều mặt hàng NK. Điều này đã làm gia tăng lượng hàng hóa NK, kéo theo thu thuế giá trị gia tăng (GTGT) đối với hàng NK cũng tăng lên cả về số tuyệt đối lẫn tỷ trọng. Trong tổng nguồn thu từ hoạt động XNK, thuế GTGT thu từ hàng NK chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng thu. Mức chênh lệch thu từ thuế GTGT so với các loại thuế khác ngày càng tăng qua các năm.

Hình 3 cho thấy, tỷ trọng thu từ thuế XK rất nhỏ và giảm dần, điều này là hợp lý vì để khuyến khích XK, đại bộ phận hàng hàng XK có thuế suất thuế XK 0%. Hiện nay, Việt Nam chủ yếu đánh thuế XK đối với nguyên liệu thô và khoáng sản khai thác chưa qua chế biến nhằm hạn chế, kiểm soát XK.

Trong số các khoản thu ngoài thuế GTGT, thu từ thuế NK có giá trị lớn nhất so với các khoản thu còn lại như thuế XK, thuế tiêu thụ đặc biệt hàng NK, thuế bảo vệ môi trường hàng NK. Xu hướng này phù hợp với quy mô phát triển của nền kinh tế cũng như lượng hàng hóa NK phục vụ sản xuất trong nước.

Hỗ trợ sản xuất trong nước

Các cam kết thuế quan của Việt Nam WTO cũng như trong các FTA đều theo các lộ trình xác định. Gần đây nhất, năm 2020, Hiệp định Hiệp định thương mại tự do (EVFTA) và Hiệp định bảo hộ đầu tư EU – Việt Nam (EVIPA) chính thức được Quốc hội thông qua với nhiều cam kết quan trọng, phạm vi cam kết rộng và mức độ cam kết cao nhất.

Ngay khi có hiệu lực, 65% hàng XK của EU sang Việt Nam và 71% hàng NK của EU từ Việt Nam được cắt giảm thuế. Với lộ trình thực hiện kéo dài một thập kỷ, EVFTA sẽ xóa bỏ gần 99% các dòng thuế và rào cản thương mại giữa Việt Nam và EU.

Với các cam kết mở cửa thị trường với mức thuế NK thấp, nền sản xuất trong nước được hưởng nhiều lợi ích từ chi phí đầu vào thấp, khả năng tiếp cận công nghệ hiện đại… cũng như khả năng gia tăng XK hàng Việt Nam sang thị trường châu Âu.

Mặc dù, số thu NSNN từ thuế XK, thuế NK trong tổng số nguồn thu có xu hướng giảm xuống, tuy vậy, thuế XK, NK có những đóng góp gián tiếp khác cho thu NSNN.

Chính sách miễn, giảm thuế NK đối với đầu vào phục vụ sản xuất hàng XK sẽ làm giảm gánh nặng chi phí cho doanh nghiệp và khả năng cạnh tranh của hàng hóa XK được cải thiện.

Bên cạnh đó, do công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam phát triển hạn chế, trong khi khu vực FDI chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế và trong hoạt động XK, chính sách miễn, giảm thuế đối với nhiều loại đầu vào NK phục vụ các dự án đầu tư cũng góp phần tích cực vào thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh, mở rộng quy mô nền kinh tế, trên cơ sở đó mở rộng cơ sở thuế, tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước.

Bảo vệ các ngành sản xuất trong nước

Để bảo vệ các ngành sản xuất trong nước trước sức ép cạnh tranh, đặc biệt là cạnh tranh không lành mạnh, các quốc gia đều ban hành các quy định về thuế chống bán phá giá, chống trợ cấp, thuế tự vệ…

Luật thuế XK, NK hiện hành đã bổ sung quy định về thuế áp dụng đối với hàng hóa XK, NK gồm thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp, thuế tự vệ gồm điều kiện áp dụng, nguyên tắc áp dụng, thời hạn áp dụng đối với từng loại thuế. Căn cứ mức thuế, số lượng hoặc trị giá hàng hóa thuộc đối tượng chịu thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp, thuế tự vệ, người khai hải quan có trách nhiệm kê khai và nộp thuế theo quy định của pháp luật về quản lý thuế.

Đến nay, Việt Nam đã điều tra 9 mặt hàng và áp dụng thuế chống bán phá giá đối với 8 mặt hàng. Các mặt hàng chủ yếu có nguồn gốc xuất xứ từ các nước châu Á, đặc biệt là từ Trung Quốc. Đa số các mặt hàng chịu thuế chống bán phá giá là các mặt hàng nhóm kim loại. Bên cạnh thuế chống bán phá giá, thuế tự vệ cũng đang được áp dụng trong quản lý thuế ở Việt Nam. Việt Nam đang áp dụng thuế tự vệ đối với 4 mặt hàng.

Việc áp thuế chống bán phá giá và thuế tự vệ góp phần quan trọng vào việc bảo vệ các doanh nghiệp trong nước trước nguy cơ đe dọa của hàng hóa NK từ nước ngoài. Phòng vệ thương mại là công cụ hữu hiệu để bảo vệ sản xuất trong nước ở bất bảo hộ cho sản phẩm, ngành sản xuất trong nước, kiểm soát nguy cơ thao túng giá cả trên thị trường

Thúc đẩy cạnh tranh trên thị trường quốc tế

Để khuyến khích XK, đại bộ phận hàng hàng XK có thuế suất thuế XK 0%. Hiện nay, Việt Nam chủ yếu đánh thuế XK đối với nguyên liệu thô và khoáng sản khai thác chưa qua chế biến nhằm hạn chế, kiểm soát XK. Bên cạnh đó, nguyên liệu, vật tư NK cho mục đích sản xuất XKđược miễn thuế NK. Chính sách thuế XK hỗ trợ doanh nghiệp giảm gánh nặng chi phí và nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa XK.

Giải pháp tăng cường hiệu lực thực hiện Luật Thuế xuất khẩu, nhập khẩu

Bên cạnh các kết quả tích cực nói trên, quá trình thực hiện chính sách thuế XK, thuế NK giai đoạn vừa qua cũng chỉ ra một số điểm tồn tại, hạn chế cần được nhận diện để có sự điều chỉnh phù hợp, nhất là các quy định liên quan đến biểu thuế, phân loại, áp mã và các vấn đề liên quan đến xuất xứ hàng hóa, nhất là ngăn chặn tình trạng hàng hóa nước ngoài “đội lốt” hàng hóa Việt Nam để lợi dụng các ưu đãi thuế của các nước dành cho Việt Nam trong khuôn khổ các hiệp định FTA để tăng XK vào các thị trường dành ưu đãi cho Việt Nam.

Bên cạnh đó, cần rà soát lại các quy định liên quan của pháp luật về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu để đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất của hệ thống chính sách, nhất là với các văn bản được ban hành gần đây. Để tăng cường hiệu lực thực hiện thuế XK, NK, tác giả đề xuất một số giải pháp gồm:

⦁ Hoàn thiện hệ thống pháp luật về thuế XK, NK, đảm bảo sự thống nhất, minh bạch của hệ thống pháp luật và phù hợp với các yêu cầu mới đặt ra từ thực tiễn phát triển của đất nước và quá trình đẩy mạnh hội nhập, tham gia các Hiệp định FTA thế hệ mới.
⦁ Hoàn thiện Nghị định quy định về biểu thuế XK ưu đãi, biểu thuế NK ưu đãi đặc biệt để thực hiện Hiệp định.
⦁ Nâng cao năng lực điều tra, phân tích, xử lý nhanh các các vụ việc gian lận của nhà NK nước ngoài để có biện pháp áp thuế chống bán phá giá, thuế tự vệ kịp thời bảo vệ các doanh nghiệp sản xuất trong nước.
⦁ Tiếp tục hướng dẫn chi tiết, cụ thể hóa quy định về việc áp các mã mô tả và mã hóa hàng hóa trong quá trình tính thuế.
⦁ Tăng cường công tác phối hợp trong quản lý để tránh tình trạng hàng hóa nước ngoài “đội lốt” hàng hóa Việt Nam để lẩn tránh thuế, lợi dụng các ưu đãi thuế của các nước dành cho Việt Nam trong khuôn khổ các hiệp định FTA để tăng XK vào các thị trường dành ưu đãi cho Việt Nam; Bám sát tình hình NK vào thị trường trong nước và XK ra nước ngoài để kiểm soát tình trạng hàng hóa mượn xuất xứ…

(Nguồn: Tapchitaichinh.vn; Xem chi tiết tại đây)

X. Nhiều quy định mới về khai thuế khoản thu khác thuộc ngân sách

Theo Nghị định 126/2020/NĐ-CP hướng dẫn một số điều của Luật Quản lý thuế số 38, việc khai thuế đối với các khoản thu khác thuộc ngân sách nhà nước có nhiều quy định mới, người nộp thuế cần biết và chủ động thực hiện.

Theo Nghị định 126, các loại thuế, khoản thu khác thuộc ngân sách nhà nước do cơ quan quản lý thuế quản lý thu thuộc loại khai theo tháng, bao gồm: Thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập cá nhân, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế bảo vệ môi trường, thuế tài nguyên.

Các loại thuế, khoản thu khác thuộc ngân sách nhà nước khai theo quý, bao gồm: thuế thu nhập doanh nghiệp đối với hãng hàng không nước ngoài, tái bảo hiểm nước ngoài; thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân đối với tổ chức tín dụng hoặc bên thứ ba được tổ chức tín dụng ủy quyền khai thác tài sản bảo đảm trong thời gian chờ xử lý khai thay cho người nộp thuế có tài sản bảo đảm.

Thuế thu nhập cá nhân đối với tổ chức, cá nhân trả thu nhập thuộc diện khấu trừ thuế theo quy định của pháp luật thuế thu nhập cá nhân, mà tổ chức, cá nhân trả thu nhập đó thuộc diện khai thuế giá trị gia tăng theo quý và lựa chọn khai thuế thu nhập cá nhân theo quý; cá nhân có thu nhập từ tiền lương, tiền công trực tiếp khai thuế với cơ quan thuế và lựa chọn khai thuế thu nhập cá nhân theo quý.

Các loại thuế, khoản thu khác thuộc ngân sách nhà nước do tổ chức, cá nhân khai thuế thay, nộp thuế thay cho cá nhân mà tổ chức, cá nhân đó thuộc diện khai thuế giá trị gia tăng theo quý và lựa chọn khai thuế thay cho cá nhân theo quý.

Các loại thuế, khoản thu khác thuộc ngân sách nhà nước khai theo năm, bao gồm: lệ phí môn bài, thuế thu nhập cá nhân đối với cá nhân làm đại lý xổ số, đại lý bảo hiểm, bán hàng đa cấp mà trong năm chưa khấu trừ do chưa đến mức phải nộp thuế nhưng đến cuối năm cá nhân xác định thuộc diện phải nộp thuế.

Các loại thuế, khoản thu của hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh nộp thuế theo phương pháp khoán, cá nhân cho thuê tài sản lựa chọn khai thuế theo năm; thuế sử dụng đất phi nông nghiệp.

Các loại thuế, khoản thu khác thuộc ngân sách nhà nước khai theo từng lần phát sinh, bao gồm: thuế tiêu thụ đặc biệt của người nộp thuế có kinh doanh xuất khẩu chưa nộp thuế tiêu thụ đặc biệt ở khâu sản xuất sau đó không xuất khẩu mà bán trong nước; thuế tiêu thụ đặc biệt của cơ sở kinh doanh mua xe ô tô, tàu bay, du thuyền sản xuất trong nước thuộc đối tượng không chịu thuế tiêu thụ đặc biệt nhưng sau đó chuyển mục đích sử dụng sang đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt…/.

(Nguồn: Thoibaotaichinhvietnam.vn; Xem chi tiết tại đây)